Sarcosuchus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sarcosuchus
Thời điểm hóa thạch: Đẩu kỷ Creta, 112 triệu năm trước đây
Bộ khung xương S. imperator, Muséum national d'Histoire naturelle, Paris
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Reptilia
Liên bộ (superordo)Crocodylomorpha
Họ (familia)Pholidosauridae
Chi (genus)†Sarcosuchus
Broin & Taquet, 1966
Loài điển hình
Sarcosuchus imperator
Broin & Taquet, 1966
Loài
  • S. imperator Broin & Taquet, 1966
  • S. hartti Marsh, 1869 (ban đầu Crocodylus)

Sarcosuchus (nghĩa là "cá sấu ăn thịt") là một chi Crocodylomorpha đã tuyệt chủng và là họ hàng xa của cá sấu, sống cách đây 112 triệu năm. Nó sống vào đầu kỷ Creta tại nơi hiện nay là châu PhiNam Mỹ và là một trong những chi bò sát dạng cá sấu lớn nhất từ tồn tại. Nó dài gần gấp đôi cá sấu cửa sông hiện đại và nặng từ 3,5 đến 4,3 tấn.

Các hóa thạch đầu tiên được phát hiện trong những cuộc nghiên cứu do nhà cổ sinh vật học người Pháp lbert-Félix de Lapparent dẫn đầu, trong sa mạc Sahara, kéo dài từ năm 1946 đến 1959. Các hóa thạch gồm những mảnh xương sọ, đốt sống, răng và xương bánh chè. Năm 1964, một hộp sọ gần như hoàn chỉnh được phát hiện tại Niger bởi Hội đồng năng lượng nguyên tử Pháp.

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Sarcosuchus imperator

Sarcosuchus là một họ hàng không lồ của cá sấu, với cá thể lớn tối đa được ước tính dài tới 10–11 mét (33–36 foot).[1] Có một cái mõm dài chiếm 75% chiều dài hộp sọ, có 35 răng ở mỗi bên hàm trên và 31 ở mỗi bên hàm dưới. Cá thể con có mõm hẹp giống cá sấu Ấn Độ.[1][2]

Kích thước[sửa | sửa mã nguồn]

Sarcosuchus (xanh) so sánh với các loài Crocodylomorpha khác và con người.

Phương pháp thông thường để ước tính kích thước cá sấu và bò sát giống cá sấu là đo chiều dài của đường trung bình từ đầu mõm đến hết hộp sọ,[1] hộp sọ và chiều dài cơ thể có sự tương quan lớn ở cá sấu trương thành và gần trưởng thành không kể đến giới tính.[3]

Hộp sọ lớn nhất của S. imperator (mẫu vật điễn hình) dài 1,6 m (5,2 ft) và chiều dài cơ thể được ước tính khoảng 11 m (36 ft),[1] và cân nặng 6 tấn (6,6 tấn Mỹ).[1] Ước tính này làm cho nó lớn hơn cả Rhamphosuchus thế Miocene,[4] chi có Deinosuchus cuối kỷ Creta[5]Purussaurus thế Miocene có thể so sánh được với kích thước tố đa.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e Sereno, Paul C.; Larson, Hans C. E.; Sidor, Christian A.; Gado, Boubé (2001). “The Giant Crocodyliform Sarcosuchus from the Cretaceous of Africa”. Science. 294. doi:10.1126/science.1066521. PMID 11679634.
  2. ^ Buffetaut, E.; Taquet, P. (1977). “The Giant Crocodilian Sarcosuchus in the Early Cretaceous of Brazil and Niger” (PDF). Paleontology. 20 (1).
  3. ^ Woodward, A. R.; White, J. H.; Linda, S. B. (1995). “Maximum size of the alligator (Alligator mississippiensis)”. J. Herpetol. 29 (4).
  4. ^ Head, J. J. (2001). “Systematics and body size of the gigantic, enigmatic crocodyloid Rhamphosuchus crassidens, and the faunal history of Siwalik Group (Miocene) crocodylians”. Journal of Vertebrate Paleontology. 21 (Supplement to No. 3): 59A.
  5. ^ Erickson, G. M.; Brochu, C. A. (1999). “How the "terror crocodile" grew so big”. Nature. 398 (6724). doi:10.1038/18343.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]