Thành viên:La Hán đẩy xe bò/Trận Trường Bản

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận hồ Trường Tân
Một phần của Giai đoạn thứ hai Chiến tranh liên Triều
Men advancing through the snow with a Tank
Một toán lính của Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đang di chuyển qua các phòng tuyến Trung Quốc trong cuộc đột phá từ hồ Trường Tân với một xe tăng hạng trung M46 Patton
Thời gian27 tháng 11 – 13 tháng 12 năm 1950
Địa điểm
Hồ Trường Tân, ngày nay là huyện Jangjin, tỉnh Hamgyong Nam, Triều Tiên
Kết quả Xem phần Ý nghĩa
Thay đổi
lãnh thổ
Lực lượng Liên Hợp Quốc rút lui chiến thuật; Lực lượng Trung Quốc tái chiếm đông bắc Triều Tiên
Tham chiến

Liên Hợp Quốc Bộ Tư lệnh Liên Hợp Quốc (UNC)

 Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Triều Tiên
Chỉ huy và lãnh đạo
Liên Hợp Quốc Douglas MacArthur
Hoa Kỳ Edward Almond
Hoa Kỳ Oliver P. Smith
Trung Quốc Ngô Kinh
Trung Quốc Bành Đức Hoài
Trung Quốc Tống Thời Luân
Trung Quốc Đào Dũng
Thành phần tham chiến
Xem Tương quan lực lượng Trận hồ Trường Tân Xem Tương quan lực lượng Trận hồ Trường Tân
Lực lượng
Danh nghĩa: 103.520[8]
Thực chiến: ~30.000[9]
Danh nghĩa: 150.000[6]
Thực chiến: ~120,000[7]
Thương vong và tổn thất
Nguồn Hoa Kỳ:
1.029 chết
4.894 mất tích
4.582 bị thương
7.338 thương vong ngoài chiến trận[4][b]
15 xe tăng hỏng[5]
17.843 tổng thương vong
Ước tính của Trung Quốc:
13.900[1]
Nguồn Trung Quốc:
19.202 thương vong trong chiến trận
28.954 thương vong ngoài chiến trận
48.156 tổng thương vong[1]
Ước tính không chính thức: ~60.000[2][a]
Ước tính của Liên Hợp Quốc:
29.800 thương vong trong chiến trận
20.000+ thương vong ngoài chiến trận[3]

Trận hồ Trường Tân, hay Chiến dịch hồ Trường Tân, là một trận chiến quan trọng trong Chiến tranh liên Triều.

Trận chiến này diễn ra khoảng một tháng sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tham chiến Chiến tranh liên Triều và điều Tập đoàn quân 9 Chí nguyện quân Nhân dân xâm nhập đông bắc Triều Tiên. Ngày 27 tháng 11 năm 1950, quân Trung Quốc gây bất ngờ cho Quân đoàn X Hoa Kỳ do Thiếu tướng Edward Almond chỉ huy tại hồ Trường Tân, khởi đầu một trận chiến khốc liệt kéo dài 17 ngày. Từ ngày 27 tháng 11 đến ngày 13 tháng 12, 30.000 quân của Bộ Tư lệnh Liên hợp quốc (về sau mang biệt danh "Chosin Few") dưới sự chỉ huy trực tiếp của Thiếu tướng Oliver P. Smith đã bị bao vây và tấn công bởi khoảng 120.000 quân Trung Quốc thuộc quyền tướng Tống Thời Luân, người thừa lệnh Mao Trạch Đông tiêu diệt lực lượng Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, lực lượng Liên Hợp Quốc vẫn thoát được khỏi vòng vây và vừa đánh vừa rút về cảng Hungnam, gây thương vong nặng nề cho quân Trung Quốc. Việc Quân đoàn 8 Hoa Kỳ lui quân sau Trận sông Thanh Xuyên và việc Quân đoàn X phải di tản tới cảng Hungnam ở đông bắc Hàn Quốc đã đánh dấu sự thoái lui hoàn toàn khỏi Triều Tiên của lực lượng Liên Hợp Quốc.

Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

A map showing the Peninsula with US forces moving from the south to the north
Bản đồ thể hiện bước tiến của lực lượng Liên Hợp Quốc theo hướng sông Áp Lục

Đến giữa tháng 10 năm 1950, sau khi Quân đoàn X đổ bộ Inchon thành công, Quân đoàn 8 đột phá từ Vành đai Pusan, phản công Quân đội Nhân dân Triều Tiên (KPA), Chiến tranh liên Triều dường như đã tới hồi kết. Lực lượng Liên Hợp Quốc (UN) tiến nhanh vào Triều Tiên với ý đồ thống nhất hai miền trước cuối năm 1950. Dãy núi Taebaek hiểm trở ở trung tâm Triều Tiên, phân lực lượng Liên Hợp Quốc thành hai nhóm. Quân đoàn 8 Hoa Kỳ tiến lên phía bắc qua đường bờ biển phía tây Bán đảo Triều Tiên, trong khi Quân đoàn I Đại Hàn Dân Quốc (ROK) và Quân đoàn X tiến lên phía bắc qua đường bờ biển phía đông.

Cùng lúc đó, Cộng hòa Nhân đân Trung Hoa quyết định tham chiến sau nhiều lần cảnh báo Liên Hợp Quốc. Ngày 19 tháng 10 năm 1950, đông đảo Chí nguyện quân Nhân dân (PVA) bí mật vượt biên, đặt chân tới Triều Tiên. Một trong những đơn vị Trung Quốc đầu tiên tiếp cận khu vực hồ Trường Tân là Quân đoàn 42 PVA, được giao nhiệm vụ chặn bước tiến của nhánh quân Liên Hợp Quốc phía đông. Ngày 25 tháng 10, Quân đoàn I ROK tiếp xúc với quân Trung Quốc và dừng chân ở đèo Fuchilin, phía nam hồ Trường Tân. Sau cuộc đổ bộ tại Wonsan, ngày 2 tháng 11, Sư đoàn 1 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ thuộc Quân đoàn X giao tranh và gây thương vong nặng nề cho Sư đoàn 124 PVA đang phòng thủ. Ngày 6 tháng 11, Quân đoàn 42 PVA phát lệnh lui quân về phía bắc với ý định dụ lực lượng Liên Hợp Quốc tới hồ Trường Tân. Đến ngày 24 tháng 11, Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến đã chiếm được cả Sinhung-ni ở phía đông và Yudami-ni ở phía tây hồ Trường Tân.

Trước những cuộc tấn công bất ngờ của quân Trung Quốc nhắm vào Quân đoàn 8, tướng Douglas MacAthur lệnh cho Quân đoàn 8 mở Cuộc phản công Home-by-Christmas. Để hỗ trợ cuộc phản công, MacAthur điều Quân đoàn X tấn công phía tây từ hồ Trường Tân và cắt mạch tiếp tế Manpojin—Kanggye—Huichon thiết yếu. Nhận lệnh, Thiếu tướng Edward M. Almond, Tư lệnh Quân đoàn X, đã lên một kế hoạch vào ngày 21 tháng 11, kêu gọi Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ tiến về phía tây qua Yudami-ni, trong khi Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ cung cấp một trung đoàn tác chiến bảo vệ sườn phải Sinhung-ni. Sư đoàn 3 Bộ binh Hoa Kỳ cũng sẽ phải vừa bảo vệ sườn trái vừa đảm bảo an toàn hậu quân. Lúc này, Quân đoàn X bị kéo dãn theo một mặt trận dài 400 dặm.

Quá bất ngờ trước cuộc đổ bộ của Thủy quân lục chiến tại Wonsan, Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông liền phát động chiến dịch tiêu diệt Sư đoàn Thủ đô ROK, Sư đoàn 3 Bộ binh ROK, Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ trong một bức điện báo gửi Tư lệnh Tống Thời Luân của Tập đoàn quân 9 PVA vào ngày 31 tháng 10. Dưới mệnh lệnh khẩn cấp của Mao, ngày 10 tháng 11, Tập đoàn quân 9 tràn vào Triều Tiên. Qua mặt tình báo Liên Hợp Quốc, ngày 17 tháng 11, Tập đoàn quân 9 lặng lẽ tiến vào khu vực hồ Trường Tân. Quân đoàn 20 Tập đoàn quân 9 nhanh chóng giải vây cho Quân đoàn 42 gần Yudami-ni.

Mở đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Vị trí, địa hình và thời tiết[sửa | sửa mã nguồn]

Hồ Trường Tân là một hồ nước nhân tạo nằm ở phía đông bắc bán đảo Triều Tiên. Cái tên Chosin, phiên âm tiếng Nhật của từ Trường Tân, được lực lượng Liên Hợp Quốc dùng để gọi hồ nước này do họ sử dụng bản đồ lỗi thời của người Nhật. Trọng tâm chính của trận chiến là xung quanh con đường dài 78 dặm (126 km) nối Hungnam với hồ Trường Tân, đóng vai trò đường máu duy nhất của lực lượng Liên Hợp Quốc. Thông qua con đường này, Yudami-ni và Sinhung-ni,[c] lần lượt ở phía tây và phía đông hồ Trường Tân, được kết nối tại Hagaru-ri (nay là Changjin-ŭp). Từ đây, con đường tiếp tục xuyên qua Koto-ri và cuối cùng đến cảng Hungnam. Dân cư khu vực quanh hồ Trường Tân khá thưa thớt.

Trận chiến diễn ra trên một số địa hình rất hiểm trở giữa thời điểm tiết trời mùa đông khắc nghiệt nhất trong suốt Chiến tranh liên Triều. Con đường trọng tâm cắt qua địa hình đồi núi, với nhiều dốc đứng. Từ một số cao điểm như đèo Funchilin và đèo Toktong, có thể nhìn thấy toàn chiều dài con đường. Chất lượng đường kém, vài đoạn chỉ là đường mòn toàn sỏi. Ngày 14 tháng 11 năm 1950, một đợt không khí lạnh từ Siberia tràn qua hồ Trường Tân, khiến nhiệt độ giảm mạnh, theo ước tính, xuống tận −36 °F (−38 °C). Thời tiết lạnh giá cộng với việc mặt đất đông cứng tuyết, gây ra nguy cơ đáng kể về thương vong do lạnh cóng, đường băng trơn trượt và trục trặc vũ khí. Vật tư y tế đóng đá; ống morphine gây mê phải được rã đông trong miệng y sĩ trước khi tiêm; huyết tương đông lạnh thì vô dụng trên chiến trường. Thậm chí việc cắt bỏ quần áo để sơ cứu vết thương còn có thể gây hoại tử và tê cóng cho thương binh. Nhiệt độ quá thấp cũng khiến pin dùng cho xe Jeep và radio nhanh chóng bị chai. Dầu bôi trơn súng ống hóa keo, vô dụng trên chiến trường, lò xo kim hỏa không bật đủ mạnh để khai hỏa và đạn rất dễ kẹt.

Lực lượng và chiến lược[sửa | sửa mã nguồn]

A map showing force emplacements around a lake
Sơ đồ chiến Trận hồ Trường Tân[c]

Mặc dù Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến đã đổ bộ xuống Wonsan như một phần của Quân đoàn X do Almond lãnh đạo, Almond và Thiếu tướng Oliver P. Smith của Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến lại không ưa nhau từ cuộc họp trước đổ bộ ở Inchon. Almond tự tin diễn thuyết về sự dễ dàng khi đổ bộ dù chưa từng tham gia đổ bộ lần nào. Trái với báo cáo từ trụ sở cấp cao ở Tokyo, Smith tin chắc rằng có rất đông quân Trung Quốc ở Triều Tiên, Almond thì lại cảm thấy Smith quá thận trọng. Mối bất hòa giữa hai chỉ huy khiến Smith làm chậm bước tiến tới hồ Trường Tân của Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến khi kháng chỉ thị từ Almond. Trên đường đi, Smith cho thiết lập các điểm tiếp liệu và đường băng ở Hagaru-ri và Koto-ri.

Trong lúc Quân đoàn X áp sát hồ Trường Tân, người Trung Quốc cũng đã xây dựng xong chiến lược của họ, dựa trên những kinh nghiệm từ Nội chiến Trung Quốc. Với giả định rằng lực lượng Liên Hợp Quốc sẽ ít hiện diện tại hồ Trường Tân, Tập đoàn quân 9 trước tiên tiêu diệt các đơn vị đồn trú của Liên Hợp Quốc tại Yudami-ni và Sinhung-ni rồi tiến về phía Hagaru-ri. Dự đoán đa phần Quân đoàn X buộc phải di chuyển để giải cứu các đơn vị bị tấn công, Tập đoàn quân 9 sau đó sẽ chặn và bẫy lực lượng chính của Liên Hợp Quốc trên đoạn đường nối giữa Hagaru-ri và Hungnam. Tập đoàn quân 9 ban đầu bố trí 8 sư đoàn nhập trận, tập trung phần lớn lực lượng tại Yudami-ni và Sinhung-ni.

Thiếu thông tin tình báo chính xác về lực lượng Liên Hợp Quốc là lỗ hổng trong kế hoạch của Trung Quốc. Mặc dù Quân đoàn X bị dàn mỏng ở đông bắc Hàn Quốc, phần lớn Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ bao gồm Trung đoàn 5, Trung đoàn 7 và Trung đoàn 11, đã tập trung tại Yudami-ni. Ngoài ra, Hagaru-ri quan trọng về mặt chiến lược, nơi có sẵn một bãi tiếp liệu và một đường băng C-47 đang xây dựng, lại không được người Trung Quốc ưu tiên dù được Trung đoàn 7 và Trung đoàn 1 Thủy quân lục chiến bảo vệ lỏng. Chỉ có một mình Đội trung đoàn chiến đấu 31 (RCT-31), một đội tác chiến cỡ trung đoàn non yếu và mới được thành lập của Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ, được rải mỏng dọc theo bờ phía đông hồ Trường Tân. Những đơn vị kể trên về sau là đối tượng hứng mũi giùi tấn công của Trung Quốc. Về phần lực lượng Liên Hợp Quốc, Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến có quân số 25.473 người đầu trận, được tăng cường thêm đơn vị Biệt kích (Độc lập) 41 Thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh và hai trung đoàn từ Sư đoàn 3 và Sư đoàn 7 Lục quân. Lực lượng Liên Hợp Quốc có quân số tổng hợp vào khoảng 30.000 người trong suốt trận chiến. Lực lượng Liên Hợp Quốc tại Trường Tân cũng được hỗ trợ bởi một trong những điểm tập kết không quân lớn nhất Chiến tranh liên Triều, Phi đội 1 Thủy quân lục chiến tại Sân bay Yonpo và 5 tàu sân bay từ Lực lượng Đặc nhiệm 77 Hải quân Hoa Kỳ có thể xuất kích 230 chuyến mỗi ngày để hỗ trợ trên không trong suốt trận chiến. Trong khi đó, Bộ Chỉ huy Quân nhu Viễn Đông của Lực lượng Không quân Hoa Kỳ tại Nhật Bản đủ sức thả 250 tấn vật tư mỗi ngày, tiếp tế cho quân Liên Hợp Quốc mắc kẹt.

Dù Tập đoàn quân 9 là một trong những đội hình tinh nhuệ nhất của Trung Quốc, với thành phần gồm toàn cựu binh và cựu tù binh từ Chiến dịch Hoài Hải, vài thiếu sót đã hạn chế năng lực của đội quân này trong trận chiến. Trước khi được Mao đột ngột điều động tới Triều Tiên, Tập đoàn quân 9 dự định được trang bị tại Mãn Châu vào tận tháng 11. Kết quả là Tập đoàn quân 9 hầu như thiếu quần áo ấm cho mùa đông khắc nghiệt ở Triều Tiên. Tương tự, do hậu cần kém, Tập đoàn quân 9 buộc phải bỏ lại pháo hạng nặng, mang theo ít lương thực và đạn dược. Tình trạng thiếu lương thực buộc Tập đoàn quân 9 ban đầu phải bố trí một phần ba quân số cách xa hồ Trường Tân để dự trù, nạn đói và phơi nhiễm búng phát giữa các đơn vị Trung Quốc, vì không thể bổ sung lương thực trong khu vực dân cư thưa thớt. Vào cuối trận chiến, quân Trung Quốc chết vì lạnh cóng nhiều hơn là chết vì chiến đấu hay không kích.

Quân số Trung Quốc thường được ước tính vào khoảng 120.000 người, vì Tập đoàn quân 9 gồm 12 sư đoàn với quân số mỗi sư đoàn là 10.000 người. Trước khi đến Triều Tiên, Tập đoàn quân 9 cũng đã được tăng cường. Mỗi quân đoàn trong tổng số ba quân đoàn của Tập đoàn quân 9 đều gồm bốn sư đoàn thay vì ba sư đoàn như thông thường. Bộ binh từ hai sư đoàn Quốc Dân Đảng đầu hàng được tiếp nhận để tăng cường cho các đại đội bộ binh. Đa phần đại đội đều có hơn 200 người, chỉ một vài đại đội có khoảng 150 người. Tuy nhiên, không kích Liên Hợp Quốc, năng lực hậu cần kém và thời tiết giá lạnh cũng khiến Tập đoàn quân 9 mất mát đáng kể quân số khi nỗ lực tiếp cận chiến trường. Chẳng hạn, vào ngày Tập đoàn quân 9 tiến vào Triều Tiên, hơn 700 người đã thương vong vì tê cóng trong khi hầu hết phương tiện vận tải Trung Quốc đều tiêu tùng do không kích Liên Hợp Quốc. Những yếu tố trên, cộng với việc không nắm chắc cách bài binh bố trận của Trung Quốc trong các nguồn phương Tây, khiến một số sử gia phải sửa quân số Trung Quốc xuống mức thấp nhất là 60.000 trong suốt trận chiến.

Cuối cùng, tất cả 12 sư đoàn của Tập đoàn quân 9 đều được triển khai, mặc dù Sư đoàn 78 và 88 của Quân đoàn 26 PVA không chạm mặt lực lượng Liên Hợp Quốc trong suốt quá trình chiến đấu. Tám sư đoàn của Quân đoàn 20 và 27 PVA là lực lượng tấn công nòng cốt. Bốn sư đoàn của Quân đoàn 26 PVA là lực lượng dự bị, và chỉ được triển khai sau khi Quân đoàn 20 và 27 PVA kiệt quệ quân số.

Diến biến[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Con số này là tổng số quân thay thế mà Tập đoàn quân 9 yêu cầu để tái tổ chức, bao gồm cả các đơn vị không tham gia giao tranh. Xem Roe 2000, tr. 394.
  2. ^ Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến báo cáo có 604 người chết, 114 người chết do bị thương, 192 người mất tích, 3.485 người bị thương và 7.338 thương vong ngoài chiến trận. Tuy nhiên, Quân đoàn X Hoa Kỳ chỉ ghi nhận Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến có 393 người chết, 2.152 người bị thương và 76 người mất tích. Con số này được tính bằng cách lồng số liệu thương vong của Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến với báo cáo tổng thương vong của Quân đoàn X. Xem Appleman 1990, tr. 345–347Montross & Canzona 1992, tr. 381–382.
  3. ^ a b Thị trấn Sinhung-ni trong bài này khác với một địa điểm cùng tên nằm ở phía nam Yudami-ni, bờ tây hồ Trường Tân. Xem Appleman 1990, tr. 30, 32, 221, 376.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Xue & Li Part Four 2000.
  2. ^ Roe 2000.
  3. ^ Appleman 1990, tr. 352.
  4. ^ Appleman 1990, tr. 345–347.
  5. ^ Appleman 1990, tr. 348.
  6. ^ Xue & Li Part One 2000.
  7. ^ 叶 2007, tr. 259.
  8. ^ Appleman 1990, tr. 37.
  9. ^ Appleman 1990, tr. 24.