Thành viên:Robyhoangkhoa
Nguyễn Văn Hương | |
---|---|
Ảnh cụ Nguyễn Văn Hương | |
Chức vụ | |
Hiệu phó trường Tiểu học Dakao | |
Nhiệm kỳ | ? – ? |
Nghề nghiệp | Giáo viên |
Vị trí | Sài Gòn, Nam Kỳ |
Tiền bối khai đại đạo Cao Đài | |
Năm khai đạo | 1926 |
Vị trí | Thánh thất Cầu Kho |
Vinh danh, khen thưởng | |
Huân chương thuộc địa | Médaille coloniale française l'Indochine |
Huân chương Pháp | Officier d'Académie |
Danh hiệu nhà giáo | Instituteur de première classe |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Năm 1899 Sài Gòn, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương |
Mất | 1932 (33 tuổi) Sài Gòn, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương |
Nguyên nhân mất | Bệnh lao phổi |
Nơi ở | Sài Gòn, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương |
Nghề nghiệp | Tiền bối khai đại đạo Cao Đài, Giáo viên, Công chức thuộc địa |
Dân tộc | Kinh |
Quê quán | Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương |
Nguyễn Văn Hương (1899-1932) là một giáo viên người Việt Nam dạy học tại Sài Gòn, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương giai đoạn thập niên 30 của thế kỷ 20. Ông từng giữ chức Hiệu phó chuyên môn Trường tiểu học Dakao (nay là trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng, Quận 1). Tuy nhiên, điều mà ông được người đời nhớ hơn hết khi ông là một trong 28 vị Tiền bối Khai đại đạo Cao Đài, trình văn bản xin lập đạo vào năm 1926 cho thống đốc Nam Kỳ khi ấy là Thống Ðốc Le Fol.
Sự nghiệp đời
[sửa | sửa mã nguồn]Nguyễn Văn Hương (1899-1932), sinh ra trong gia đình của ông Nguyễn Văn Cậy (tổ tiên có gốc Quảng Bình di cư cùng chúa Nguyễn Hoàng) tại Nam Kỳ thuộc Liên Bang Đông Dương, thuộc địa Pháp. Trong bối cảnh đất nước bị đô hộ, Nguyễn Văn Hương đã sớm thể hiện tài năng và tinh thần yêu quê hương, xứ sở. Với vốn chữ Hán, chữ Pháp và Quốc ngữ được học từ nhỏ ở giai đoạn giáo dục thuộc địa còn nhập nhằng. Năm 16 tuổi, ông được tuyển chọn vào làm thông ngôn, ký lục cho chính quyền thực dân Pháp. Chính nhờ sự thông thạo ngoại ngữ và khả năng giao tiếp linh hoạt, ông đã nhanh chóng trở thành một nhân vật quan trọng trong bộ máy hành chính. Những đóng góp xuất sắc của ông trong việc phiên dịch, lưu trữ hồ sơ và hỗ trợ công việc hành chính đã được chính quyền thuộc địa Pháp ghi nhận. Ông vinh dự được trao tặng Huân chương Công chức thuộc địa (Médaille coloniale francaise l'Indochine), một phần thưởng cao quý dành cho những cá nhân có công lao trong việc xây dựng và phát triển các thuộc địa. Huân chương này không chỉ là sự ghi nhận cho những nỗ lực của ông trong thời gian làm việc tại cơ quan hành chính mà còn là minh chứng cho sự tận tâm và trung thành của ông đối với công việc.
Khoảng nửa cuối thập niên 20 của thế kỷ 20, với sự thiếu hụt giáo viên tại Nam kỳ[1]. Bộ giáo dục Đông Pháp quyết định tăng số lượng giáo viên bằng cách thâu nhận lực lượng thông ngôn, ký lục tại các sở ngành đặng bổ sung vào nhà trường. Từ đây, ông Hương sang sự nghiệp giáo dục. Với lòng yêu nước và mong muốn nâng cao dân trí, ông đã quyết định trở thành giáo viên và dạy học tại trường tiểu học Dakao [2].(nay là trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng, Quận 1). Tại đây, với kiến thức sâu rộng và phương pháp giảng dạy hiệu quả, ông nhanh chóng khẳng định được tài năng của mình. Ông không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn nuôi dưỡng tinh thần yêu nước và ý thức trách nhiệm xã hội cho thế hệ trẻ. Với thành tích xuất sắc, ông đã đạt được danh hiệu nhà giáo hạng nhất (Instituteur de première classe) và vinh dự nhận Huân chương Cọ học thuật (Officier d'Académie), một phần thưởng cao quý dành cho các nhà giáo thời bấy giờ và được bổ vào vị trí Hiệu phó nhà trường.
Sự nghiệp đạo
[sửa | sửa mã nguồn]Bên cạnh sự nghiệp giáo dục, ông Hương còn là một trong những người có công khai sinh ra đạo Cao Đài. Việc khai đại đạo Cao Đài là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu sự ra đời của một tôn giáo mới tại Việt Nam. Ông là một trong 28 vị trí danh tín như Cao Hoài Sang, Phạm Công Tắc, Cao Huỳnh Cư... đã cùng nhau ký vào bản khai đại đạo, trình lên chính quyền thuộc địa để thông báo lập đạo. Hành động này đòi hỏi sự dũng cảm và quyết tâm lớn, thể hiện tinh thần yêu nước và khát vọng độc lập của ông. Ông là người ký thứ 26 trong tổng số 28 vị tiền bối khai đại Đạo[3].
Mặc dù là một trong những người khai sinh ra đại đạo Tam kỳ phổ độ nhưng ông không phải là một chức sắc trong đạo Cao Đài.
Qua đời
[sửa | sửa mã nguồn]Ông mất vào năm 1932 vì bệnh lao phổi, khi vừa đón đứa con thứ mười chưa đầy 1 tháng tuổi.
Huân chương và danh hiệu
[sửa | sửa mã nguồn]- Médaille coloniale francaise l'Indochine (thời ông làm công chức)
- Officier d'académie (huân chương chỉ dành cho những người có sáng kiến Khoa học hoặc đóng góp tích cực trong giáo dục ở khoảng thời gian ngắn)
- Instituteur de prèmiere classe
- Đại diện cho các tín đồ Cao Đài ký khai đại đạo Tam kỳ phổ độ
Gia đình
[sửa | sửa mã nguồn]Đến nay, ông Nguyễn Văn Hương vẫn được con cháu đời sau ghi nhớ và tôn kính. Ông được thờ tại nhà thờ tổ dòng họ Nguyễn ở Xóm Gà, Bình Thạnh và tại thánh thất Cầu Kho, Quận 1 như một biểu tượng cho sự sáng lập và phát triển của đạo Cao Đài. Di sản của ông không chỉ là những đóng góp cho sự nghiệp giáo dục mà còn là tấm gương sáng về lòng yêu nước, tinh thần cầu tiến và đức tin.
Trong gia đình, cụ Hương là ông tổ của nghề "gõ đầu trẻ" của dòng họ. Đến nay đã có người thế hệ thứ 5 theo nghề giáo.
Vĩ thanh
[sửa | sửa mã nguồn]Ở với họ mà không theo họ
[sửa | sửa mã nguồn]Dù công tác trong bộ máy hành chính của thực dân Pháp, lòng yêu nước của ông Nguyễn Văn Hương luôn cháy bỏng. Ông không chỉ giáo dục con cháu về lòng yêu nước mà còn hành động một cách quyết liệt hơn đó là việc khai sinh ra đạo Cao Đài. Đây không chỉ là một hành động tôn giáo mà còn là một hành động chính trị sâu sắc, thể hiện tinh thần yêu nước và khát vọng độc lập của ông.
Nhờ có cái nhìn tốt trong mắt người Pháp nên việc ông và các danh tín yêu nước đã "qua mặt" chính quyền mà xây dựng một tôn giáo mang đậm bản sắc dân tộc, ông đã góp phần giữ gìn văn hóa Việt Nam, đoàn kết nhân dân và tạo ra một lực lượng tinh thần để chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp. Đây được xem như một cuộc cách mạng văn hóa, một cách thức đấu tranh độc đáo, khôn khéo, vừa bảo tồn tinh hoa văn hóa dân tộc, vừa tạo nên một khối đại đoàn kết để hướng tới mục tiêu dân tộc độc lập.
Mục đích lập đạo Cao Đài cùng với các đồng môn
[sửa | sửa mã nguồn]Trước thực trạng bị Pháp áp bức, những người có lòng yêu nước, đặc biệt là giới trí thức, đã không cam chịu. Họ đã tìm mọi cách để đấu tranh giành lại độc lập cho quê hương xứ sở. Bên cạnh việc thành lập các đảng phái chính trị và các tờ báo cách mạng, một số giáo viên, hội đồng và công chức thuộc địa yêu nước như ông Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang và... đã lựa chọn một con đường đấu tranh khác, đó là thành lập đạo Cao Đài.[4]
Việc lựa chọn hình thức này là một chiến lược hết sức khôn ngoan. Bằng cách này, họ vừa có thể tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, vừa có thể tránh được sự nghi ngờ và đàn áp trực tiếp từ phía chính quyền thực dân. Dưới vỏ bọc của một tôn giáo, những hoạt động yêu nước của các tín đồ Cao Đài được tiến hành một cách kín đáo nhưng rất hiệu quả.[5]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam kỳ (tập 2). Nguyễn Đình Tư
- ^ “Nhớ về trường nam tiểu học Đakao (1948 – 1953)”. Truy cập 21 tháng 8 năm 2024.
- ^ https://www.daotam.info/booksv/DichLyCaoDai/NguyenThuy/28vitienkhaidaidao/28vitienkhaidaidao.htm
- ^ “TÌM HIỂU VỀ NGÀY KHAI ĐẠO CỦA ĐẠO CAO ĐÀI”. Truy cập 21 tháng 8 năm 2024.
- ^ http://web.archive.org/web/20010609221650/http://www.caodaiyouth.org/