Nhờ bạn xem lại khoa thi năm 1275: Trong [1] thì ghi 7. Đào Tiêu (1275) (Yên Hồ, Đức Thọ, Hà Tĩnh), còn trong [2] thì là 14) Đào Thúc (? - ?)
Người xã Phủ Lý, huyện Đông Sơn (nay thuộc tỉnh Thanh Hoá). Đỗ Trạng nguyên khoa Ất Hợi, niên hiệu Bảo Phù thứ 3 (1275), đời Trần Thánh Tông. Không rõ ông làm quan đến chức gì. Chỉ biết sau khi chết ông được phong Phúc thân` tại địa phương
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, trang 802 thì tên là Đào Tiêu. Tuy nhiên k ghi quê quán. Chúng tôi tạm thời ghi là quê Hà Tĩnh theo [3] — thảo luận quên ký tên này là của195.19.48.182 (thảo luận • đóng góp).
Trong danh sách ta đang dùng có 56 vị là trạng nguyên của 54 kỳ thi (có 2 kỳ lấy 2 trạng).
Tại đây viết: "Đến năm 1247, lại đặt ra danh hiệu tam khôi để chỉ ba người xuất sắc nhất trong số thí sinh thi đỗ, theo thứ bậc cao, thấp là: Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa.". Nên có thể danh hiệu "trạng nguyên" đến năm 1247 mới trở thành "chính thức" (mặc dù các khoa thi trước vẫn chọn người đỗ đầu). Do đó bỏ mất 7 kỳ thi (tất cả các kỳ thời Lý và 3 kỳ thời Trần), còn lại 47 kỳ.
Có thể người tính ra con số 47 trạng nguyên không biết đến chuyện có 2 năm lấy 2 trạng. Cho nên 47 kỳ thi -> 47 trạng nguyên.
Đấy là tôi đoán thế. Còn để chắc chắn, bạn Daidien có thể tra Đại Việt sử ký toàn thư để rà soát lại từng vị (tìm theo năm tổ chức thi là nhanh nhất).
Bình luận mới nhất: 17 năm trước2 bình luận2 người đã thảo luận
Theo tôi nhớ thì các bảng tại Văn Miếu Hà Nội ghi tất cả các tiến sĩ -- cả trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, hoàng giáp,... và các người chỉ đỗ tiến sĩ. Đã hơn 50 năm tôi không được nhìn các bảng đá đó, nhưng có người nào có thể làm nghiên cứu, đọc các bảng đó và viết một bài về tất cả các tiến sĩ của các kỳ thi Hội của Việt Nam không? Mekong Bluesman04:05, ngày 31 tháng 1 năm 2007 (UTC)Trả lời