Bước tới nội dung

Trận Lützen (1632)

51°16′4″B 12°09′24″Đ / 51,26778°B 12,15667°Đ / 51.26778; 12.15667
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Lützen
Một phần của Chiến tranh 30 năm
Battle of Lutzen
Bức tranh Trận Lützen của Carl Wahlbom miêu tả cái chết của Vua Gustavus Adolphus vào ngày 16 tháng 11 năm 1632.
Thời gian6 tháng 11 (Lịch Julius) hoặc 16 tháng 11 (Lịch Gregory), 1632[1]
Địa điểm
Gần Lützen, Tây Nam Leipzig
(Đức ngày nay)
51°16′4″B 12°09′24″Đ / 51,26778°B 12,15667°Đ / 51.26778; 12.15667
Kết quả Thụy Điển chiến thắng kiểu Pyrros
Tham chiến
Đế quốc Thụy Điển
Liên minh Tin Lành
Đế quốc La Mã thần thánh
Công giáo La Mã
Chỉ huy và lãnh đạo
Thụy Điển Gustavus Adolphus 
Tuyển hầu quốc Sachsen Bernhard xứ Saxe-Weimar
Dodo zu Innhausen und Knyphausen
Thụy Điển Robert Munro, Nam tước thứ 18 xứ Foulis
Đế quốc La Mã Thần thánhAlbrecht von Wallenstein
Đế quốc La Mã Thần thánhGottfried zu Pappenheim 
Heinrich Holk
Lực lượng
12.828 bộ binh[2]
5.910 kỵ binh[2]
60 khẩu pháo[3]
8.200 bộ binh[4]
4.800-5.800 kỵ binh[4]
2.900 bộ binh[5] và 2,300 kỵ binh chi viện[6]
43 khẩu pháo
Thương vong và tổn thất
~ 6.000 quân thương vong, bị bắt hoặc mất tích[7] ~ 5.160 quân thương vong, bị bắt hoặc mất tích
24 khẩu pháo bị thu giữ[8]
Lützen trên bản đồ Saxony-Anhalt
Lützen
Lützen
Vị trí trong Saxony-Anhalt
Lützen trên bản đồ Đức
Lützen
Lützen
Lützen (Đức)

Trận Lutzen (16 tháng 11 năm 1632) là một trong những trận đánh quan trọng nhất và đẫm máu nhất của Chiến tranh Ba Mươi Năm (1618 - 1648). Mặc dù cả hai bên đều chịu những tổn thất nặng nề, đây là Chiến thắng kiểu Pyrros của Thụy ĐiểnLiên minh Tin Lành. Tuy nhiên, họ lại mất vị chỉ huy xuất sắc nhất của họ: vua Gustav II Adolf của Đế quốc Thụy Điển. Axel Oxenstierna sau đó lên thay nhà vua Thụy Điển tiếp tục các chiến dịch tại Đức.[9]

Việc Gustav II Adolf của Thụy Điển qua đời trong trận Lutzen và thất bại của quân Tin lành trong trận Nördlingen 2 năm sau đó đồng nghĩa với việc Pháp trở thành thế lực mạnh nhất của Đạo Tin Lành, hay "Liên minh chống Nhà Habsburg."

Do trận đánh xảy ra trong thời tiết sương mù bao kín cả vùng Saxony ngày hôm đó, nên trong một số văn bản lịch sử của Thụy Điển ngày nay, vẫn còn câu thuật ngữ "Lutzendimma" (Trận Sương mù Lutzen) để miêu tả về thời tiết sương mù trong trận đánh này.

Diễn biến trước trận đánh

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ trận Lutzen, màu xanh là của Gustav, màu đỏ là của Wallenstein)

2 ngày trước trận đánh, ngày 14 tháng 11 (Lịch Gregorius) hoặc 4 tháng 11 (Lịch Julius), Wallenstein, một vị tướng của quân đội Công giáo, quyết định chia quân ra và quay lại căn cứ ở Leipzig. Ông ta kì vọng quân Tin lành, chỉ huy bởi Gustav II Adolf của Thụy Điển, sẽ không còn truy sát mình nữa do thời tiết xấu khiến cho việc cắm quân ở nông thôn gặp nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, quân đội của vua Gustav, một quân đội mà cả châu Âu đều biết tới, với một lực lượng toàn là lính đánh thuê nước ngoài, rời khỏi trại để tìm kiếm chút manh mối còn lại của Wallenstein và mở một cuộc truy sát để cho Wallenstein bị bất ngờ. Thế nhưng, Gustav lại bị một đạo quân nhỏ của Wallenstein chặn đường ở suối Rippach, cách Lutzen khoảng 5 – 6 km. Lực lượng nhỏ bé ấy đã chặn đứng Adolf (tên phổ biến của vua Gustav) trong suốt 2 - 3 tiếng đồng hồ. Khi đêm xuống, hai bên vẫn còn cách nhau khoảng 2 – 3 km (1 - 2 dặm).

Chiều ngày 15 tháng 11, Wallenstein nhận được tin quân của Adolf đã rời khỏi trại để truy sát mình. Nhận biết được mối nguy hiểm đến gần, ông gửi thư yêu cầu cho Pappenheim, một tướng quân của nhà Habsburg, đến hội quân cùng với mình. Vào nửa đêm, sau khi nhận được thư của ông, Pappenheim đã lập tức "nhận lời", và đi theo cùng với đa số quân lính của mình. Trong đêm, Wallenstein và Poppenheim dàn quân dọc theo con đường từ Lutzen tới Leipzig. Riêng Wallenstein, ông ta cho dừng lại cùng với đoàn pháo binh của mình trên một ngọn đồi thấp, để pháo binh có thể tấn công tốt nhất.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ "Battle of Lützen | Thirty Years' War, Swedish-Saxon, Gustavus Adolphus | Britannica". www.britannica.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2024.
  2. ^ a b Wilson 2018, tr. 220.
  3. ^ Wilson 2018, tr. 61.
  4. ^ a b Schürger 2015, tr. 63.
  5. ^ Wedgwood 1938, tr. 327.
  6. ^ Wilson 2009, tr. 509.
  7. ^ Wilson 2018, tr. 89.
  8. ^ Wilson 2018, tr. 87–89.
  9. ^ Ericson Wolke, Lars; Larsson, Villstrand (2006). Historiska Media (biên tập). Trettioåriga kriget (bằng tiếng Thụy Điển). Historiska media. tr. 145–148. ISBN 91-85377-37-6.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]