Zingiber clarkei

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Zingiber clarkei
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Plantae
(không phân hạng)Angiospermae
(không phân hạng)Monocots
(không phân hạng)Commelinids
Bộ (ordo)Zingiberales
Họ (familia)Zingiberaceae
Phân họ (subfamilia)Zingiberoideae
Tông (tribus)Zingibereae
Chi (genus)Zingiber
Loài (species)Z. clarkei
Danh pháp hai phần
Zingiber clarkei
King ex Baker, 1892[1]
Danh pháp đồng nghĩa
Zingiber clarkei King ex Benth. & Hook.f., 1883 nom. inval.

Zingiber clarkei là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Gilbert Baker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1892.[1][2] Danh pháp này đã được George BenthamJoseph Dalton Hooker đề cập năm 1883 theo mô tả trước đó của George King (1840-1909) khi các tác giả mô tả tổ Pleuranthesis, nhưng không hợp lệ do không kèm theo mô tả cho loài này.[3]

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh clarkei là để vinh danh Charles Baron Clarke (1832-1906), nhà thực vật học người Anh, giám quản Vườn Thực vật Calcutta giai đoạn 1869-1871, viện sĩ Hiệp hội Hoàng gia từ 1882, chủ tịch Hiệp hội Linnaeus giai đoạn 1894-1896.

Mẫu định danh[sửa | sửa mã nguồn]

Mẫu định danh: Hooker J.D. & Thomson T. 3; do Joseph Dalton Hooker (1817-1911) và Thomas Thomson (1817-1878) thu thập năm 1859 ở cao độ 3.000-5000 ft (tối đa 1.600 m), tọa độ khoảng 27°45′0″B 88°45′0″Đ / 27,75°B 88,75°Đ / 27.75000; 88.75000. Mẫu syntype (MNHN-P-P00450919) được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Pháp ở Paris (P).[4]

Phân bố[sửa | sửa mã nguồn]

Loài này có ở Đông Himalaya, tại các bang SikkimTây BengalẤn Độ cũng như tại Bhutan.[1][4][5][6]

Phân loại[sửa | sửa mã nguồn]

Loài này được xếp trong tổ Pleuranthesis.[1][3][5]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Thân lá 150-200 cm, có lông tơ. Lá không cuống hoặc cuống rất ngắn, thuôn dài hoặc thuôn dài-hình mác, thon nhỏ-nhọn thon, đáy nhọn, 30-45 x 5-10 cm, có lông tơ mịn ở mặt dưới, mép và đỉnh bẹ. Lưỡi bẹ dài 6 mm, dạng màng, cắt cụt, rậm lông. Cành hoa bông thóc ở bên, thuôn dài-hình trụ nhọn, dài 7,5-10 cm, đường kính 3,5 cm, rủ xuống; cuống cụm hoa 7,5-15 cm, có lông măng, phần dưới rộng hơn. Lá bắc dài 2,5 cm, thuôn dài-hình trứng ngược, tù, màu xanh lục, phần trên cùng ánh đỏ, đỉnh có lông-lông rung, 2-4 hoa. Đài hoa dài 1 cm, 3 răng khó thấy. Ống tràng dài bằng lá bắc; các thùy tràng hơi ngắn, dài 2,5 cm, màu vàng nhạt, thùy tràng trên rộng nhất và lõm. Cánh môi dài như thùy tràng hoa, thuôn dài, màu vàng ánh màu tía nâu/tía đen. Nhị màu vàng nhạt, gần dài bằng cánh môi. Bầu nhụy rậm lông. Quả nang gần hình cầu, dạng màng, ngắn hơn lá bắc. Hạt lớn cỡ hạt đậu, đường kính 6 mm, màu nâu-nâu hạt dẻ. Áo hạt nhỏ, ngắn, màu trắng.[1][5]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  • Tư liệu liên quan tới Zingiber clarkei tại Wikimedia Commons
  • Dữ liệu liên quan tới Zingiber clarkei tại Wikispecies
  • Vườn thực vật hoàng gia Kew; Đại học Harvard; Australian Plant Name Index (biên tập). “Zingiber clarkei”. International Plant Names Index. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013.
  1. ^ a b c d e Baker J. G., 1892. Order CXLIX. Scitamineae: Zingiber trong Hooker J. D., 1892. The Flora of British India 6(18): 248.
  2. ^ The Plant List (2010). Zingiber clarkei. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013.
  3. ^ a b Bentham G. & Hooker J. D., 1883. Ordo CLXX. Scitamineae – Tribus I. Zingibereae: Zingiber clarkei. Genera Plantarum 3(2): 646.
  4. ^ a b Zingiber clarkei trong Zingiberaceae Resource Centre. Tra cứu ngày 16-5-2021.
  5. ^ a b c Schumann K. M., 1904. IV. 46. Zingiberaceae: Zingiber clarkei trong Engler A., 1904. Das Pflanzenreich Heft 20: 168.
  6. ^ Zingiber clarkei trong Plants of the World Online. Tra cứu ngày 16-5-2021.