Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đông Liêu (nước)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 10: Dòng 10:


==Đối lập Hậu Liêu==
==Đối lập Hậu Liêu==
Năm [[1215]], [[Da Luật Lưu Ca]] công chiếm Đông Kinh của nhà Kim (nay là Liêu Dương), ngay sau đó mọi người khuyên Lưu Ca xưng đế song ông cự tuyệt. Da Luật Lưu Ca tìm đến nương nhờ Thành Cát Tư Hãn, được [[Thành Cát Tư Hãn]] phong làm Liêu Vương. Thành Cát Tư Hãn bất mãn trước việc phó thủ của Da Luật Lưu Ca là Khả Đặc Ca lấy thê thiếp của [[Bồ Tiên Vạn Nô]], hướng Khả Đặc Ca hỏi tội, [[Da Luật Bất Đẳng]] tuyên bố Lưu Ca đã chết, cử binh bội phản. Năm 1216, Da Luật Tư Bất xưng đế tại Trừng Châu (nay là [[Hải Thành]], [[Liêu Ninh]]), lấy quốc hiệu là Liêu, sử gọi là [[Hậu Liêu]].
Năm [[1215]], Da Luật Lưu Ca công chiếm Đông Kinh của nhà Kim (nay là Liêu Dương), ngay sau đó mọi người khuyên Lưu Ca xưng đế song ông cự tuyệt. Da Luật Lưu Ca tìm đến nương nhờ Thành Cát Tư Hãn, được [[Thành Cát Tư Hãn]] phong làm Liêu Vương. Thành Cát Tư Hãn bất mãn trước việc phó thủ của Da Luật Lưu Ca là Khả Đặc Ca lấy thê thiếp của [[Bồ Tiên Vạn Nô]], hướng Khả Đặc Ca hỏi tội, [[Da Luật Bất Đẳng]] tuyên bố Lưu Ca đã chết, cử binh bội phản. Năm 1216, Da Luật Tư Bất xưng đế tại Trừng Châu (nay là [[Hải Thành]], [[Liêu Ninh]]), lấy quốc hiệu là Liêu, sử gọi là [[Hậu Liêu]].


==Chính quyền về sau==
==Chính quyền về sau==

Phiên bản lúc 14:48, ngày 20 tháng 10 năm 2015

Đông Liêu (giản thể: 东辽; phồn thể: 東遼; 1213-1269) là chính quyền quân chủ do người Khiết Đan thành lập ở Đông Bắc Trung Quốc ngày nay vào thời Kim Tuyên Tông.

Kiến quốc

Năm 1212, tông thất nhà LiêuDa Luật Lưu Ca, Da Luật Da khởi quân biến loạn tại Long An (nay là Nông An, Cát Lâm) và Hàn Châu (nay là Lê Thụ, Cát Lâm), tập hợp được quân số lên tới vạn người. Được sự che chở của đế quốc Mông Cổ và kình địch chống nhà Kim. Kim cho phái Hoàn Nhan Hồ Sa, Bồ Tiên Vạn Nô thảo phạt Da Luật Lưu Ca, Da Luật Lưu Ca hướng Mông Cổ mong cứu viện, với sự chi viện của quân Mông Cổ, Da Luật Lưu Ca tại đã phá tan quân Kim Địch Cát Não Nhi (nay là Xương Đồ, Liêu Ninh).

Tháng 3 năm 1213, Da Luật Lưu Ca xưng vương, định quốc hiệu là "Liêu", đặt niên hiệu là "Nguyên Thống", về sau gọi là chính quyền Đông Liêu. Da Luật Lưu Ca phong cho Diêu Lý Thị là hoàng hậu, em trai là Da Luật Tư Bất là quận vương; phong cho Pha Sa, Tăng Gia Nô, Da Luật Đích, Lý Gia Nô làm thừa tướng, nguyên súy, thượng thư, thiết lập thể chế quốc gia. Năm 1214, nhà Kim lại phái Bồ Tiên Vạn Nô xuất quân đánh Đông Liêu, quân Đông Liêu phá tan quân Bồ Tiên Vạn Nô tại huyện Quy Nhân (nay là Xương Đồ, Liêu Ninh), Da Luật Lưu Ca chiếm cứ các châu quận tại Liêu Đông, định đô tại Hàm Bình (nay là Khai Nguyên, Liêu Ninh), xưng là Trung Kinh.

Tình trạng trong nước

Hệ thống trong nước của Đông Liêu thiếu các tư liệu ghi chép, đa số là không rõ ràng. Năm 1213, khi lập quốc đã xuất hiện các chức danh hoàng hậu, quận vương, thừa tướng, nguyên súy, thượng thư, được đặt giả thuyết là mô phỏng theo hệ thống triều đình nhà Kim song điều này chỉ là suy đoán.

Đối lập Hậu Liêu

Năm 1215, Da Luật Lưu Ca công chiếm Đông Kinh của nhà Kim (nay là Liêu Dương), ngay sau đó mọi người khuyên Lưu Ca xưng đế song ông cự tuyệt. Da Luật Lưu Ca tìm đến nương nhờ Thành Cát Tư Hãn, được Thành Cát Tư Hãn phong làm Liêu Vương. Thành Cát Tư Hãn bất mãn trước việc phó thủ của Da Luật Lưu Ca là Khả Đặc Ca lấy thê thiếp của Bồ Tiên Vạn Nô, hướng Khả Đặc Ca hỏi tội, Da Luật Bất Đẳng tuyên bố Lưu Ca đã chết, cử binh bội phản. Năm 1216, Da Luật Tư Bất xưng đế tại Trừng Châu (nay là Hải Thành, Liêu Ninh), lấy quốc hiệu là Liêu, sử gọi là Hậu Liêu.

Chính quyền về sau

Năm 1218, Da Luật Lưu Ca với sự trợ giúp của đế quốc Mông Cổ và vua Cao Ly đã tiến đánh Hậu Liêu. Mùa xuân năm 1219, vua Hậu LiêuDa Luật Hảm Xá bại trận tự sát, Hậu Liêu diệt vong. Da Luật Lưu Ca khôi phục lại đất cũ. Năm 1220, Da Luật Lưu Ca mất, thê tử là Diêu Lý Thị thống trị Liêu Đông. Chính quyền Đông Liêu tồn tại đến năm 1233, do Đông Hạ của Bồ Tiên Vạn Nô diệt vong, nên bị chính quyền Mông Cổ bãi bỏ. Tuy nhiên, các hậu duệ của Da Luật Lưu Ca được đế quốc Mông Cổ cho làm quan địa phương thế tập ở Đông Bắc.

Quốc vương

Tên Niên hiệu Thời gian tại vị
Da Luật Lưu Ca Nguyên Thống 1213-1220
Diêu Lý Thị 1220-1226
Da Luật Tiết Đồ 1226-1238
Da Luật Thu Quốc Nô 1238-1259
Da Luật Cổ Nãi 1259-1269

Tham khảo

Xem thêm