Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lỗ Tấn”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Meotrangden (thảo luận | đóng góp)
Đã lùi lại sửa đổi 2181999 của 116.118.32.61 (Thảo luận)
link vpbq
Dòng 43: Dòng 43:
{{commonscat|Lu Xun}}
{{commonscat|Lu Xun}}
*[http://docbao.com.vn/viewer.aspx?nid=2c8643d16f7c41b797d0d93092d89ace Những người phụ nữ của đại văn hào Lỗ Tấn], trang 12.
*[http://docbao.com.vn/viewer.aspx?nid=2c8643d16f7c41b797d0d93092d89ace Những người phụ nữ của đại văn hào Lỗ Tấn], trang 12.
*[http://vnthuquan.net/truyen/tacpham.aspx?tacgiaid=328 Tuyển tập Lỗ Tấn trên VNTQ]
{{sơ thảo văn học}}
{{sơ thảo văn học}}
{{Thời gian sống|sinh=1881|mất=1936}}
{{Thời gian sống|sinh=1881|mất=1936}}

Phiên bản lúc 10:44, ngày 8 tháng 9 năm 2009

Chu Thụ Nhân
Sinh25 tháng 9, 1881
Thiệu Hưng, Triết Giang, Trung Quốc
Mất19 tháng 10, 1936(1936-10-19) (55 tuổi)
Bút danhLỗ Tấn
Nghề nghiệpNhà văn, Nhà tiểu luận
Quốc tịchTrung Quốc
Giai đoạn sáng tác1918-1936

Lỗ Tấn (chữ Hán phồn thể: 魯迅; chữ Hán giản thể: 鲁迅; bính âm: Lǔ Xùn; 25 tháng 9, 1881 – 19 tháng 10, 1936) là nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc. Ông được giới nghiên cứu văn chương coi là người đặt nền móng cho văn chương hiện đại Trung Quốc và là bậc thầy của thể loại truyện ngắn. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là AQ chính truyện.

Tiểu sử

Lỗ Tấn tên khai sinh là Chu Chương Thọ, sau đổi tên là Chu Thụ Nhân (chữ Hán phồn thể: 周樹人, chữ Hán giản thể: 周树人; bính âm: Zhōu Shùrén), hiệu Dự Tài, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881 tại huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang trong một gia đình quan lại đã sa sút.

Cha của ông là Chu Bá Nghi đỗ tú tài nhưng không được ra làm quan, bị bệnh mất sớm. Mẹ của ông là Lỗ Thụy. Bà đã sớm có ảnh hưởng đến khả năng văn chương của Lỗ Tấn qua vệc bà kể cho ông nghe nhiều truyện cổ dân gian. Lỗ Tấn là bút danh ông lấy từ họ mẹ.

Năm 1899, ông đến Nam Kinh theo học ở Thủy sư học đường (trường đào tạo nhân viên hàng hải). Hai năm sau, ông thi vào trường Khoáng lộ học đường (đào tạo kỹ sư mỏ địa chất). Năm 1902, Lỗ Tấn du học Nhật Bản, tại đây ông tham gia Quang Phục hội, một tổ chức yêu nước của người Trung Quốc.

Sau hai năm học tiếng Nhật, năm 1904, ông chính thức vào học ngành y ở trường Đại học Tiên Đài. Năm 1906, ông thôi học và bắt đầu hoạt động văn nghệ bằng việc dịch và viết một số tiểu luận giới thiệu các tác phẩm văn học châu Âu như thơ Puskin, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Jules Verne. Năm 1909, vì hoàn cảnh gia đình, Lỗ Tấn trở về Trung Quốc. Ông dạy ở trường trung học Thiệu Hưng và có làm hiệu trưởng trường sư phạm Thiệu Hưng một thời gian.

Từ 1920 đến 1925, Lỗ Tấn làm việc tại các trường Đại học Bắc Kinh, Cao đẳng Sư phạm Bắc Kinh và Đại học nữ Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1926, ông tới Hạ Môn (tỉnh Phúc Kiến) và làm việc tại trường Đại học Hạ Môn. Đầu năm 1927, Lỗ Tấn đến Quảng Châu, làm trưởng phòng giáo vụ kiêm chủ nhiệm khoa văn của trường Đại học Trung Sơn. Tháng 10 năm 1927, ông rời Quảng Châu tới Thượng Hải và ở lại đây đến lúc qua đời (1936).

Sự nghiệp văn học

Lỗ Tấn rất ưa thích các tác phẩm của Nikolai Gogol. Năm 1918, truyện ngắn đầu tay của Lỗ Tấn là Nhật kí người điên lần đầu tiên được in trên tờ Thanh niên mới số tháng 5-1918, truyện được lấy tên dựa theo truyện ngắn Nhật ký của một người điên của Gogol. Từ 1918 đến 1927, Lỗ Tấn viết nhiều truyện ngắn và tạp văn. Về truyện ngắn có 2 tập: Gào thét (14 truyện) và Bàng hoàng (11 truyện). Về tạp văn có 7 tập. Giai đoạn từ 1928 đến khi mất, ông viết tập truyện ngắn Chuyện cũ viết lại (gồm 8 truyện) và 9 tập tạp văn. Ngoài ra, ông còn dịch nhiều tác phẩm văn học thế giới ra tiếng Trung.

Tham khảo

Liên kết ngoài