Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cao Phong Nguyên Diệu”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
'''Cao Phong Nguyên Diệu''' ([[chữ Hán]]: 高峰原妙; 1238-1295), còn được tôn xưng là '''Cao Phong Diệu Tổ''' (高峰妙祖), là một [[thiền sư]] Trung Quốc thời [[Nam Tống]].
'''Cao Phong Nguyên Diệu''' ([[chữ Hán]]: 高峰原妙, ja. ''Kōhō Genmyō''; 1238-1295), còn được tôn xưng là '''Cao Phong Diệu Tổ''' (高峰妙祖), là một [[thiền sư]] Trung Quốc thời [[Nam Tống]].


==Hành trạng==
==Hành trạng==
Sư nguyên họ '''Từ''' (徐), tự là '''Cao Phong''' (高峰), sinh năm Mậu Tuất (1238) nhằm niên hiệu Gia Hy thứ 2, đời vua [[Tống Lý Tông]] triều Nam Tống, tại vùng Ngô Giang của xứ [[Tô Châu]].
Sư nguyên họ '''Từ''' (徐), tự là '''Cao Phong''' (高峰), sinh năm Mậu Tuất (1238) nhằm niên hiệu Gia Hy thứ 2, đời vua [[Tống Lý Tông]] triều Nam Tống, tại vùng Ngô Giang của xứ [[Tô Châu]].


Năm 15 tuổi, Sư phát tâm xuất gia, đến năm 17 tuổi thọ Cụ túc, khi tròn 18 tuổi theo học với Đại sư Pháp Trụ ở chùa Mật Ấn về giáo pháp Thiên Thai và ngộ được ý chỉ. Sau, Sư chuyên tâm tham mộ thiền pháp nên đã đến cầu đạo với Thiền sư Đoạn Kiều - Diệu Luân, tuy nhiên chưa tìm được sở đắc.
Năm 15 tuổi, Sư phát tâm xuất gia, đến năm 17 tuổi thọ Cụ túc, khi tròn 18 tuổi theo học với Đại sư Pháp Trụ ở chùa Mật Ấn về [[Thiên Thai tông|giáo pháp Thiên Thai]] và ngộ được ý chỉ. Sau, Sư chuyên tâm tham mộ thiền pháp nên đã đến cầu đạo với Thiền sư Đoạn Kiều - Diệu Luân, tuy nhiên chưa tìm được sở đắc.


Sư đến pháp hội của Tổ sư Tuyết Nham - Tổ Khâm để nhập chúng tu thiền. Biết Sư là bậc Long tượng sẽ phát dương quang đại cho thiền lâm sau này, nên Tổ sư đặc biệt chú ý giáo hoá. Mấy lần, Sư vừa mở miệng chưa kịp tham vấn đã bị Tổ sư Tuyết Nham đánh một gậy rồi đuổi ra, nhân khi đọc được bài “''Chơn tán''” của Đệ Thập Tổ sư Pháp Diễn, Sư lãnh ngộ được yếu chỉ của việc bị đánh một gậy trên nên càng chú tâm hầu cận với Tổ sư Tuyết Nham.
Sư đến pháp hội của Tổ sư [[Tuyết Nham Tổ Khâm]] để nhập chúng tu thiền. Biết Sư là bậc Long tượng sẽ phát dương quang đại cho thiền lâm sau này, nên Tổ sư đặc biệt chú ý giáo hoá. Mấy lần, Sư vừa mở miệng chưa kịp tham vấn đã bị Tổ sư Tuyết Nham đánh một gậy rồi đuổi ra, nhân khi đọc được bài “''Chơn tán''” của Đệ Thập Tổ sư [[Ngũ Tổ Pháp Diễn|Pháp Diễn]], Sư lãnh ngộ được yếu chỉ của việc bị đánh một gậy trên nên càng chú tâm hầu cận với Tổ sư Tuyết Nham.


Một hôm, Tổ sư hỏi : “''Đất trời bao la, ông có thể làm chủ được không ?''”
Một hôm, Tổ sư hỏi : “''Đất trời bao la, ông có thể làm chủ được không ?''”
Dòng 24: Dòng 24:
Nào hay diện mục chẳng đổi thay.
Nào hay diện mục chẳng đổi thay.


Sư về đảnh lễ Tổ sư và trình kiến giải, được Tổ sư ấn chứng truyền trao ngôi Tổ vị đời thứ 18 của tông Lâm Tế.
Sư về đảnh lễ Tổ sư và trình kiến giải, được Tổ sư ấn chứng truyền trao ngôi Tổ vị đời thứ 18 của [[Lâm Tế tông|tông Lâm Tế]].


Năm Kỷ Mão (1279) nhằm niên hiệu thứ 2, đời Vua Tống Đế Bính triều Nam Tống, Sư dựng một thảo am nhỏ ở hang Sư Tử trên núi Thiên Mục và đề hiệu là “''Tử Quan''”, trong 15 năm không hề bước chân ra khỏi cửa. Thiền phong Sư vang khắp chốn, đồ chúng tìm đến tham học ngày càng đông.
Năm Kỷ Mão (1279) nhằm niên hiệu thứ 2, đời [[Tống đế Bính]] triều Nam Tống, Sư dựng một thảo am nhỏ ở hang Sư Tử trên núi Thiên Mục và đề hiệu là “''Tử Quan''”, trong 15 năm không hề bước chân ra khỏi cửa. Thiền phong Sư vang khắp chốn, đồ chúng tìm đến tham học ngày càng đông.


Vào năm Ất Mùi (1295) nhằm niên hiệu Nguyên Trinh năm đầu, đời Vua Thành Tông triều Nguyên, Sư thâu thần thị tịch, trụ thế 58 tuổi. Môn đồ lập tháp thờ Sư ở Tử Quan tại núi Thiên Mục.
Vào năm Ất Mùi (1295) nhằm niên hiệu Nguyên Trinh năm đầu, đời vua [[Nguyên Thành Tông]], Sư thâu thần thị tịch, trụ thế 58 tuổi. Môn đồ lập tháp thờ Sư ở Tử Quan tại núi Thiên Mục.


Vua ban thụy hiệu cho Sư là Phổ Minh Quảng Tế Thiền sư.
Vua ban thụy hiệu cho Sư là Phổ Minh Quảng Tế Thiền sư.

Phiên bản lúc 10:05, ngày 22 tháng 12 năm 2019

Cao Phong Nguyên Diệu (chữ Hán: 高峰原妙, ja. Kōhō Genmyō; 1238-1295), còn được tôn xưng là Cao Phong Diệu Tổ (高峰妙祖), là một thiền sư Trung Quốc thời Nam Tống.

Hành trạng

Sư nguyên họ Từ (徐), tự là Cao Phong (高峰), sinh năm Mậu Tuất (1238) nhằm niên hiệu Gia Hy thứ 2, đời vua Tống Lý Tông triều Nam Tống, tại vùng Ngô Giang của xứ Tô Châu.

Năm 15 tuổi, Sư phát tâm xuất gia, đến năm 17 tuổi thọ Cụ túc, khi tròn 18 tuổi theo học với Đại sư Pháp Trụ ở chùa Mật Ấn về giáo pháp Thiên Thai và ngộ được ý chỉ. Sau, Sư chuyên tâm tham mộ thiền pháp nên đã đến cầu đạo với Thiền sư Đoạn Kiều - Diệu Luân, tuy nhiên chưa tìm được sở đắc.

Sư đến pháp hội của Tổ sư Tuyết Nham Tổ Khâm để nhập chúng tu thiền. Biết Sư là bậc Long tượng sẽ phát dương quang đại cho thiền lâm sau này, nên Tổ sư đặc biệt chú ý giáo hoá. Mấy lần, Sư vừa mở miệng chưa kịp tham vấn đã bị Tổ sư Tuyết Nham đánh một gậy rồi đuổi ra, nhân khi đọc được bài “Chơn tán” của Đệ Thập Tổ sư Pháp Diễn, Sư lãnh ngộ được yếu chỉ của việc bị đánh một gậy trên nên càng chú tâm hầu cận với Tổ sư Tuyết Nham.

Một hôm, Tổ sư hỏi : “Đất trời bao la, ông có thể làm chủ được không ?

Sư thưa : “Dạ được ! ”.

Tổ sư lại hỏi : “Lúc nằm mộng, ông làm chủ được không ?”

Sư thưa : “Dạ được ! ”.

Tổ sư hỏi tiếp : “Vậy chính ngay lúc ngủ say, không mộng, không tưởng, không thấy, không nghe thì chủ nhân ông ở chỗ nào ?

Sư không đáp được, liền xin vào núi Long Tu quán xét suốt 5 năm. Đến năm Kỷ Tỵ (1269), nhân hôm nọ, người bạn đồng tu bên cạnh làm rơi chiếc gối xuống đất, Sư chợt nghe thấy tiếng động này liền bỗng nhiên triệt ngộ và thuyết kệ :

Chốn cũ người xưa vẫn còn đây

Nào hay diện mục chẳng đổi thay.

Sư về đảnh lễ Tổ sư và trình kiến giải, được Tổ sư ấn chứng truyền trao ngôi Tổ vị đời thứ 18 của tông Lâm Tế.

Năm Kỷ Mão (1279) nhằm niên hiệu thứ 2, đời Tống đế Bính triều Nam Tống, Sư dựng một thảo am nhỏ ở hang Sư Tử trên núi Thiên Mục và đề hiệu là “Tử Quan”, trong 15 năm không hề bước chân ra khỏi cửa. Thiền phong Sư vang khắp chốn, đồ chúng tìm đến tham học ngày càng đông.

Vào năm Ất Mùi (1295) nhằm niên hiệu Nguyên Trinh năm đầu, đời vua Nguyên Thành Tông, Sư thâu thần thị tịch, trụ thế 58 tuổi. Môn đồ lập tháp thờ Sư ở Tử Quan tại núi Thiên Mục.

Vua ban thụy hiệu cho Sư là Phổ Minh Quảng Tế Thiền sư.

Tác phẩm của Sư để lại gồm quyển Cao Phong - Diệu thiền sư ngữ lụcCao Phong Hòa thượng thiền yếu.

Đệ tử nối pháp là Thiền sư Minh Bổn.

Chú thích

Tham khảo