Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Điều ước Nam Kinh”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
sửa ngữ pháp
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Đã lùi lại sửa đổi 63989264 của Korean peninsula (Korea) (thảo luận) Thừa (sử dụng mobileUndo)
Thẻ: Lùi sửa Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 16: Dòng 16:
|t=南京條約|s=南京条约|p=Nánjīng tiáoyuē|h=Lam<sup>5</sup>/Nam<sup>5</sup>-gin<sup>1</sup> Tiau<sup>2</sup>yok<sup>5</sup>|j=Naam<sup>2</sup> ging<sup>1</sup> tiu<sup>4</sup> joek<sup>3</sup>
|t=南京條約|s=南京条约|p=Nánjīng tiáoyuē|h=Lam<sup>5</sup>/Nam<sup>5</sup>-gin<sup>1</sup> Tiau<sup>2</sup>yok<sup>5</sup>|j=Naam<sup>2</sup> ging<sup>1</sup> tiu<sup>4</sup> joek<sup>3</sup>
}}
}}
'''Hiệp ước Nam Kinh''' ([[Trung văn phồn thể]]: 南京條約; [[Trung văn giản thể]]: 南京条约), chính thức được gọi là '''Điều ước Hòa bình, Hữu nghị và Thương mại giữa Nữ vương của Vương quốc Anh và Ireland và Hoàng đế của Trung Hoa''', đã được ký kết vào ngày 29 tháng tám 1842 đánh dấu sự kết thúc của [[chiến tranh nha phiến lần thứ nhất]] (1839-1842) giữa [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland|Liên hiệp Vương quốc Anh và Ireland]] (Ngày nay là [[Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland]]) và [[nhà Thanh]] của Trung Quốc. Đây [[điều ước bất bình đẳng]] đầu tiên bất lợi cho Trung Quốc, do phía Anh không có nghĩa vụ đối ứng.<ref>Hoe, Susanna; Roebuck, Derek (1999). ''The Taking of Hong Kong: Charles and Clara Elliot in China Waters''. Routledge. p. 203. ISBN 0-7007-1145-7.</ref>
'''Hiệp ước Nam Kinh''' ([[Trung văn phồn thể]]: 南京條約; [[Trung văn giản thể]]: 南京条约), chính thức được gọi là '''Điều ước Hòa bình, Hữu nghị và Thương mại giữa Nữ vương của Vương quốc Anh và Ireland và Hoàng đế của Trung Hoa''', đã được ký kết vào ngày 29 tháng tám 1842 đánh dấu sự kết thúc của [[chiến tranh nha phiến lần thứ nhất]] (1839-1842) giữa [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland|Liên hiệp Vương quốc Anh và Ireland]] và [[nhà Thanh]] của Trung Quốc. Đây [[điều ước bất bình đẳng]] đầu tiên bất lợi cho Trung Quốc, do phía Anh không có nghĩa vụ đối ứng.<ref>Hoe, Susanna; Roebuck, Derek (1999). ''The Taking of Hong Kong: Charles and Clara Elliot in China Waters''. Routledge. p. 203. ISBN 0-7007-1145-7.</ref>


Theo sau thất bại quân sự của Trung Quốc, với các tàu chiến của Anh sẵn sàng để tấn công thành phố, các đại diện của đế chế Anh và đế chế Thanh đàm phán trên tàu HMS Cornwallis neo ở [[Nam Kinh]]. Ngày 29 tháng 8 năm 1842, đại diện của Anh Sir Henry Pottinger và đại diện nhà Thanh, [[Kỳ Anh (quan Trung Quốc)|Kỳ Anh]], [[Y Lý Bố]], và Niujian, ký kết các điều ước. Nó gồm mười chương và phê chuẩn bởi Nữ hoàng Victoria và hoàng đế [[Đạo Quang]] đã trao đổi chín tháng sau đó.
Theo sau thất bại quân sự của Trung Quốc, với các tàu chiến của Anh sẵn sàng để tấn công thành phố, các đại diện của đế chế Anh và đế chế Thanh đàm phán trên tàu HMS Cornwallis neo ở [[Nam Kinh]]. Ngày 29 tháng 8 năm 1842, đại diện của Anh Sir Henry Pottinger và đại diện nhà Thanh, [[Kỳ Anh (quan Trung Quốc)|Kỳ Anh]], [[Y Lý Bố]], và Niujian, ký kết các điều ước. Nó gồm mười chương và phê chuẩn bởi Nữ hoàng Victoria và hoàng đế [[Đạo Quang]] đã trao đổi chín tháng sau đó.

Phiên bản lúc 22:53, ngày 28 tháng 10 năm 2020

Hiệp ước Nam Kinh
Tên đầy đủ:
  • Điều ước Hòa bình, Hữu nghị và Thương mại giữa Nữ hoàng Vương quốc Anh và Ireland với Hoàng đế Trung Hoa[1]
{{{image_alt}}}
Ký kết điều ước trên tàu HMS Cornwallis
Ngày kí29 tháng 8 năm 1842 (1842-08-29)
Ngày đưa vào hiệu lực26 tháng 6 năm 1843 (1843-06-26)
Điều kiệnTrao đổi phê chuẩn
Bên tham gia
Ngôn ngữAnh, Trung
Treaty of Nanking tại Wikisource
Điều ước Nam Kinh
Phồn thể南京條約
Giản thể南京条约

Hiệp ước Nam Kinh (Trung văn phồn thể: 南京條約; Trung văn giản thể: 南京条约), chính thức được gọi là Điều ước Hòa bình, Hữu nghị và Thương mại giữa Nữ vương của Vương quốc Anh và Ireland và Hoàng đế của Trung Hoa, đã được ký kết vào ngày 29 tháng tám 1842 đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh nha phiến lần thứ nhất (1839-1842) giữa Liên hiệp Vương quốc Anh và Irelandnhà Thanh của Trung Quốc. Đây điều ước bất bình đẳng đầu tiên bất lợi cho Trung Quốc, do phía Anh không có nghĩa vụ đối ứng.[2]

Theo sau thất bại quân sự của Trung Quốc, với các tàu chiến của Anh sẵn sàng để tấn công thành phố, các đại diện của đế chế Anh và đế chế Thanh đàm phán trên tàu HMS Cornwallis neo ở Nam Kinh. Ngày 29 tháng 8 năm 1842, đại diện của Anh Sir Henry Pottinger và đại diện nhà Thanh, Kỳ Anh, Y Lý Bố, và Niujian, ký kết các điều ước. Nó gồm mười chương và phê chuẩn bởi Nữ hoàng Victoria và hoàng đế Đạo Quang đã trao đổi chín tháng sau đó.

Bối cảnh

Dự thảo đầu tiên cho các điều khoản của một điều ước đã được chuẩn bị tại văn phòng Đối ngoại ở Luân Đôn vào tháng 2 năm 1840. Văn phòng Đối ngoại nhận thức được rằng việc chuẩn bị một điều ước được viết bằng tiếng Trung và Anh sẽ cần được xem xét kỹ lưỡng. Với khoảng cách ngăn cách các quốc gia, người ta nhận ra rằng cần phải linh hoạt và rời khỏi thủ tục đã thiết lập trong việc chuẩn bị các điều ước.

Chú thích

  1. ^ Mayers, William Frederick (1902). Treaties Between the Empire of China and Foreign Powers (4th ed.). Shanghai: North-China Herald. p. 1.
  2. ^ Hoe, Susanna; Roebuck, Derek (1999). The Taking of Hong Kong: Charles and Clara Elliot in China Waters. Routledge. p. 203. ISBN 0-7007-1145-7.