HMS Eglinton (L87)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu khu trục HMS Eglinton (L87), khoảng năm 1942
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Eglinton (L87)
Đặt hàng 21 tháng 3 năm 1939
Xưởng đóng tàu Vickers-Armstrongs, River Tyne
Đặt lườn 8 tháng 6 năm 1939
Hạ thủy 28 tháng 12 năm 1939
Nhập biên chế 28 tháng 8 năm 1940
Số phận Bán để tháo dỡ, tháng 5 năm 1956
Đặc điểm khái quát[1]
Lớp tàu Lớp Hunt Kiểu I
Trọng tải choán nước
  • 1.000 tấn Anh (1.020 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.340 tấn Anh (1.360 t) (đầy tải)
Chiều dài 85 m (278 ft 10 in) (chung)
Sườn ngang 8,8 m (28 ft 10 in)
Mớn nước 3,27 m (10 ft 9 in)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Parsons;
  • 2 × nồi hơi ống nước 3 nồi Admiralty;
  • 2 × trục;
  • công suất 19.000 shp (14.170 kW)
Tốc độ 27,5 hải lý trên giờ (50,9 km/h)
Tầm xa
  • 3.500 nmi (6.480 km) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h);
  • 1.000 nmi (2.000 km) ở tốc độ 26 hải lý trên giờ (48 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 146
Vũ khí

HMS Eglinton (L87) là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu I của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và đưa ra phục vụ vào năm 1940. Nó đã hoạt động cho đến hết Chiến tranh Thế giới thứ hai, cho đến khi xuất biên chế năm 1945 và bị bán để tháo dỡ năm 1956.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Eglinton được đặt hàng cho hãng Vickers-Armstrongs tại River Tyne trong Chương trình Chế tạo 1939 và được đặt lườn vào ngày 8 tháng 6 năm 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 12 năm 1939 và nhập biên chế vào ngày 28 tháng 8 năm 1940. Con tàu được cộng đồng dân cư Alton, Hampshire đỡ đầu trong khuôn khổ cuộc vận động gây quỹ Tuần lễ Tàu chiến năm 1942.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Eglinton hoạt động cùng Chi hạm đội Khu trục 16 trong suốt thời gian phục vụ trong chiến tranh. Nó từng tham gia hai cuộc đụng độ với tàu phóng lôi E-boat Đức Quốc xã trong khi hộ tống các đoàn tàu vận tải đi sang phía Đông, cũng như tham gia cuộc Đổ bộ Normandy.[2]

Sau tháng 8 năm 1945, Eglinton được cho xuất biên chế và đưa về lực lượng dự bị tại Harwich.[3] Đến ngày 24 tháng 6 năm 1955, nó được đề cử như một tàu thử nghiệm tham gia cuộc thực tập "Sleeping Beauty", trắc nghiệm đặc tính những con tàu trong thành phần dự bị và thời gian để đưa chúng trở lại hoạt động cùng hạm đội thường trực. Cuối cùng con tàu bị bán để tháo dỡ, và bị tháo dỡ tại Blyth bởi hãng Hughes Bolckow vào ngày 28 tháng 5 năm 1956.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Lenton 1970, tr. 87
  2. ^ English 1987
  3. ^ Critchley 1982, tr. 24

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). London: Chatham. ISBN 978-1-86176-281-8. OCLC 67375475.
  • Critchley, Mike (1982). British Warships Since 1945: Part 3: Destroyers. Liskeard, UK: Maritime Books. ISBN 0-9506323-9-2.
  • English, John (1987). The Hunts: A history of the design, development and careers of the 86 destroyers of this class built for the Royal and Allied Navies during World War II. World Ship Society. ISBN 0-905617-44-4.
  • Lenton, H.T. (1970). Navies of the Second World War: British Fleet & Escort Destroyers: Volume Two. London: Macdonald & Co. ISBN 0-356-03122-5.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]