HMS Limbourne (L57)
Lịch sử | |
---|---|
Anh Quốc | |
Tên gọi | HMS Limbourne (L57) |
Đặt hàng | 4 tháng 7, 1940 |
Xưởng đóng tàu | Alexander Stephen, Govan, Glasgow |
Đặt lườn | 8 tháng 4, 1941 |
Hạ thủy | 12 tháng 5, 1942 |
Hoàn thành | 24 tháng 10, 1942 |
Số phận | Đắm do trúng ngư lôi từ tàu phóng lôi E-boat tại eo biển Manche, 23 tháng 10, 1943 |
Đặc điểm khái quát[1] | |
Lớp tàu | Lớp Hunt Kiểu III |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 85,3 m (279 ft 10 in) (chiều dài chung) |
Sườn ngang | 10,16 m (33 ft 4 in) |
Mớn nước | 3,51 m (11 ft 6 in) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | 2.350 nmi (4.350 km) ở tốc độ 20 kn (37 km/h) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 168 |
Vũ khí |
|
Ghi chú | chi phí £352.000[2] |
HMS Limbourne (L57) là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu III của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và nhập biên chế năm 1942. Nó đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị đắm do trúng ngư lôi từ tàu phóng lôi E-boat Đức tại eo biển Manche vào ngày 23 tháng 10, 1943.
Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]
Limbourne được đặt hàng vào ngày 4 tháng 7, 1940 cho hãng Alexander Stephen and Sons tại Govan, Glasgow, Scotland trong Chương trình Chiến tranh Khẩn cấp 1940 và được đặt lườn vào ngày 8 tháng 4, 1941. Nó được hạ thủy vào ngày 12 tháng 5, 1942 và hoàn tất vào ngày 24 tháng 10 năm 1942. Con tàu được cộng đồng dân cư Dagenham thuộc hạt Essex đỡ đầu trong khuôn khổ cuộc vận động gây quỹ Tuần lễ Tàu chiến năm 1942. Tên nó được đặt theo một rừng săn cáo cũ không còn tồn tại, và là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Anh được đặt cái tên này.[3]
Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]
1942[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi hoàn tất chạy thử máy, Limbourne chuyển đến Scapa Flow vào tháng 11, 1942, nơi nó gia nhập Hạm đội Nhà và tiếp tục được trang bị hoàn thiện. Trong giai đoạn này nó đã hộ tống thiết giáp hạm Duke of York (17) đi Gibraltar, và sau đó hộ tống Duke of York và tàu sân bay Victorious (R38) từ Địa Trung Hải quay trở về Anh sau khi đã hỗ trợ cho Chiến dịch Torch, cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên Bắc Phi. Sang tháng 12, nó được điều đến Plymouth và gia nhập Chi hạm đội Khu trục 15. Con tàu đảm nhiệm việc tuần tra và hộ tống vận tải ven biển tại khu vực eo biển Manche và Khu vực Tiếp cận phía Tây.[3][4][5][6]
1943[sửa | sửa mã nguồn]
Limbourne đảm nhiệm vai trò tuần tra và hộ tống vận tải đi lại giữa Anh và Gibraltar cho đến tháng 3, 1943, khi nó bị hư hại một chân vịt; nó được sửa chữa thay thế chân vịt tại xưởng tàu ở Portsmouth, rồi sau đó hộ tống thiết giáp hạm Pháp Courbet đi Clyde, Scotland. Sang tháng 4, nó cùng chi hạm đội tiếp tục nhiệm vụ bảo vệ các đoàn tàu vận tải ven biển tại vùng eo biển Manche và Khu vực Tiếp cận phía Tây. Vào tháng 9, nó được phân công tuần tra chống tàu ngầm tại khu vực vịnh Biscay, ngăn chặn tàu ngầm U-boat Đức băng qua đây để tiến vào Đại Tây Dương. Đến ngày 3 tháng 10, nó bị hư hại nhẹ sau khi đụng độ với các tàu phóng lôi E-boat Đức.[3][6]
Vào ngày 22 tháng 10, Limbourne được bố trí cùng tàu tuần dương hạng nhẹ tàu tuần dương hạng nhẹ Charybdis (88) và các tàu khu trục Grenville (R97), Stevenstone (L16), Rocket (H92), Talybont (L18) và Wensleydale (L86) trong Chiến dịch Tunnel nhằm ngăn chặn chiếc tàu buôn Đức Munsterland chở nguyên liệu cao su và kim loại vượt phong tỏa. Kế hoạch tác chiến của Anh được vạch ra gấp gáp, huy động những tàu chiến sẵn có; trong khi con tàu Đức được hộ tống bởi sáu tàu quét mìn và hai tàu tuần tra trang bị radar và sau đó được tăng cường thêm năm tàu phóng lôi.[3][6]
Trong trận Sept-Îles diễn ra vào ngày hôm sau, Limbourne bị các tàu phóng lôi Đức tấn công gần đảo Guernsey, và trúng phải ngư lôi phóng từ tàu phóng lôi T22. Nó bị hư hại nặng và hoàn toàn bất động. Kế hoạch kéo con tàu đi thất bại, nên cuối cùng nó phải bị đánh đắm bởi ngư lôi của Talybont và hải pháo từ chiếc Rocket. 42 người trong số thành viên thủy thủ đoàn đã bị mất cùng con tàu, và có 100 người sống sót. Tàu tuần dương Charybdis cũng bị đánh chìm bởi ngư lôi trong trận này.[3][6][7]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Lenton 1970, tr. 87
- ^ Brown 2006, tr. 107
- ^ a b c d e Mason, Geoffrey B. (2004). Gordon Smith (biên tập). “HMS Limbourne (L57) - Type III, Hunt-class Escort Destroyer”. naval-history.net. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2018.
- ^ Barnett 1991
- ^ Scott 2009
- ^ a b c d Smith 1984
- ^ Leith 1993
Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]
- Barnett, Corelli (1991). Engage the Enemy More Closely – The Royal Navy in the Second World War. W. W. Norton Co. ISBN 978-0393029185.
- Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). Luân Đôn: Chatham. ISBN 978-1-86176-281-8. OCLC 67375475.
- Critchley, Mike (1982). British Warships Since 1945: Part 3: Destroyers. Liskeard, UK: Maritime Books. ISBN 0-9506323-9-2.
- English, John (1987). The Hunts: A history of the design, development and careers of the 86 destroyers of this class built for the Royal and Allied Navies during World War II. World Ship Society. ISBN 0-905617-44-4.
- Gardiner, Robert (1987). Conway's All the World's Fighting Ships 1922-1946. Luân Đôn: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
- Leith, Craig (1993). Two Honourable Years: A Sailor’s Story of H.M. Cruiser Charybdis 1941-43. Craig Leith. ISBN 9780952098201.
- Lenton, H.T. (1970). Navies of the Second World War: British Fleet & Escort Destroyers: Volume Two. Luân Đôn: Macdonald & Co. ISBN 0-356-03122-5.
- Scott, Peter (2009). The Battle of the Narrow Seas: The History of the Light Coastal Forces in the Channel and North Sea 1939-1945. London: Seaforth Publishing. ISBN 9781848320352.
- Smith, Peter C. (1984). Hold the Narrow Seas: Naval Warfare in the English Channel 1939-1945. Moorland Publishing. ISBN 9780870219382.
- Whitley, M. J. (1988). Destroyers of World War Two - an international encyclopedia. Luân Đôn: Arms and Armour. ISBN 0-85368-910-5.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]