HMS Whirlwind (R87)

Tàu khu trục HMS Whirlwind (R87) vào năm 1944
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Whirlwind (R87)
Xưởng đóng tàu Hawthorn Leslie
Hạ thủy 30 tháng 8 năm 1943
Xếp lớp lại F187, 1953
Số phận Đắm đang khi sử dụng như một mục tiêu, 29 tháng 10 năm 1974
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp W
Trọng tải choán nước
  • 1.710 tấn Anh (1.740 t) (tiêu chuẩn)
  • 2.530 tấn Anh (2.570 t) (đầy tải)
Chiều dài 362,75 ft (110,57 m) (chung)
Sườn ngang 35,75 ft (10,90 m)
Mớn nước 10 ft (3,0 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Parsons;
  • 2 × nồi hơi ống nước 3 nồi Admiralty;
  • 2 × trục;
  • công suất 40.000 shp (30.000 kW)
Tốc độ
  • 36 hải lý trên giờ (66,7 km/h)
  • 32 hải lý trên giờ (59,3 km/h) khi đầy tải
Tầm xa 4.675 nmi (8.660 km) ở tốc độ 20 kn (37 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 197
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar Kiểu 272 chỉ định mục tiêu;
  • Radar Kiểu 291 cảnh báo không trung;
  • Radar Kiểu 285 điều khiển hỏa lực trên bệ Mk.III(W);
  • Radar Kiểu 282 điều khiển hỏa lực 40 mm trên bệ Mk.IV
Vũ khí
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu frigate Kiểu 15
Trọng tải choán nước 230 tấn Anh (230 t) (tiêu chuẩn)
Chiều dài 358 ft (109 m) (chung)
Sườn ngang 37,75 ft (11,51 m)
Mớn nước 14,5 ft (4,4 m)
Tốc độ 31 hải lý trên giờ (57,4 km/h) khi đầy tải
Thủy thủ đoàn tối đa 174
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar Kiểu 293Q chỉ định mục tiêu, (sau là Kiểu 993);
  • Radar Kiểu 277Q dò tìm mặt biển;
  • Radar Kiểu 974 dẫn đường;
  • Radar Kiểu 262 điều khiển hỏa lực trên bệ CRBF;
  • Radar Kiểu 1010 Cossor Mark 10 nhận diện bạn thù;
  • Sonar Kiểu 174 dò tìm;
  • Sonar Kiểu 162 chỉ định mục tiêu;
  • Sonar Kiểu 170 tấn công
Vũ khí

HMS Whirlwind (R87/D30/F187) là một tàu khu trục lớp W được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sống sót qua cuộc xung đột, nó được cải biến thành một tàu frigate nhanh chống tàu ngầm Kiểu 15 vào năm 1953, xếp lại lớp với ký hiệu lườn F187, và bị đánh chìm như một mục tiêu năm 1974. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoàng gia mang cái tên này.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Whirlwind được đặt hàng vào ngày 3 tháng 12 năm 1941 như một phần của Chi hạm đội Khẩn cấp 9, và được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Hawthorn Leslie. Nó được hạ thủy vào ngày 30 tháng 8 năm 1943.[1]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Whirlwind đã phục vụ trong cả Thế Chiến II lẫn trong cuộc Chiến tranh Lạnh. Nó tạm thời mang ký hiệu lườn D30 khi được phối thuộc hoạt động cùng Hải quân Hoa Kỳ tại Mặt trận Thái Bình Dương vào cuối Thế Chiến II. Sau chiến tranh, nó được cải biến vào năm 1953 thành một tàu frigate chống tàu ngầm Kiểu 15, và mang ký hiệu lườn mới F187.

Vào năm 1954, Whirlwind tham gia việc trục vớt xác một máy bay phản lực dân dụng Havilland Comet bị rơi ngoài khơi đảo Elba. Đến năm 1956, nó nằm trong thành phần lực lượng Hải quân Hoàng gia được bố trí đến khu vực Đông Địa Trung Hải trong khuôn khổ Chiến dịch Musketeer nhân vụ Khủng hoảng kênh đào Suez. Vào lúc này, nó thuộc biên chế Hải đội Frigate 5.

Vào năm 1964, cùng với chiếc HMS Rothesay, Whirlwind được bố trí tuần tra ngoài khơi quần đảo Bahama ngăn chặn sự vận chuyển bất hợp pháp từ Cuba.[2]

Whirlwind bị đắm trong vịnh Cardigan, ở tọa độ 52°16′47″B 04°40′41″T / 52,27972°B 4,67806°T / 52.27972; -4.67806, vào ngày 29 tháng 10 năm 1974, khi được sử dụng như một mục tiêu.[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Colledge 1969, tr. 379
  2. ^ “Royal Navy, including Administration, 1961”.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]