Halichoeres hortulanus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Halichoeres hortulanus
Cá đực
Cá cái
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Halichoeres
Loài (species)H. hortulanus
Danh pháp hai phần
Halichoeres hortulanus
(Lacépède, 1801)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Labrus hortulanus Lacépède, 1801
  • Labrus centiquadrus Lacépède, 1801

Halichoeres hortulanus là một loài cá biển thuộc chi Halichoeres trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1801.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh hortulanus trong tiếng Latinh mang nghĩa là "ở trong khu vườn", không rõ hàm ý đề cập đến điều gì. Scharpf và Lazara (2021) cho rằng tên gọi đề cập đến kiểu màu sắc bắt mắt của chúng giống như một vườn hoa đang nở rộ.[2] Mazza thì cho rằng, từ này có nghĩa là "người làm vườn", do loài cá này có hành vi xới cát và các mảnh san hô để tìm thức ăn,[3] nhưng Lacépède không đề cập đến hành vi này trong bản mô tả của ông.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

H. hortulanus được phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, kể cả Biển Đỏ. Từ bờ biển Đông PhiNam Phi, phạm vi của H. hortulanus trải dài về phía đông đến quần đảo Line, quần đảo MarquisesTuamotu, ngược lên phía bắc đến vùng biển phía nam Nhật Bản (bao gồm quần đảo Ogasawara), xa về phía nam đến Úc (bao gồm cả rạn san hô Great Barrierđảo Lord Howe).[1][4]

Việt Nam, H. hortulanus được ghi nhận tại đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi);[5] cù lao Chàm (Quảng Nam);[6] bờ biển Phú Yên;[7] vịnh Nha Trangvịnh Vân Phong (Khánh Hòa);[8] bờ biển Ninh Thuận;[9] cù lao Câu và một số đảo đá ngoài khơi Bình Thuận;[10] đảo Phú Quốcquần đảo An Thới (Kiên Giang);[11] Côn Đảo;[12] cũng như tại quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa.[13]

H. hortulanus sống trên các rạn san hô viền bờ và trong đầm phá, nơi có nền đáy cát ở độ sâu đến ít nhất là 30 m.[14]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Cá con

H. hortulanus có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 27 cm.[15] Cá cái và cá đực đặc trưng bởi những hàng đốm vuông trắng viền đen trên vảy của chúng. Hai cặp răng nanh ở phía trước của hàm trên và một cặp ở hàm dưới.[16]

Cá cái có hai đốm vàng ở gốc vây lưng (đốm trước lớn hơn đốm sau, nhưng đốm sau có thể không có ở nhiều cá thể) với một vệt đen lớn giữa hai đốm này. Đầu màu vàng lục với các vệt sọc màu hồng cam. Vây lưng và vây đuôi có màu vàng tươi. Bụng và các vây còn lại trắng (trừ vây ngực trong suốt). Cá đực có màu xanh lục, đặc biệt ở vùng đầu. Vảy trên thân có thêm các đốm màu xanh lam thẫm, làm nổi bật kiểu hình ca rô của chúng. Phía sau đầu có một dải màu trắng nhạt. Vây đuôi chuyển sang màu xanh thẫm với dải màu đỏ cam ở rìa sau. Đốm đen trên lưng có thể biến mất ở nhiều cá thể. Cá con lốm đốm các mảng màu trắng và đen trên thân; giữa vây lưng có một đốm đen lớn viền vàng. Vây đuôi trong mờ, màu vàng.[16][17][18]

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 11; Số tia vây ở vây ngực: 13–14; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 26.[17]

L. centiquadrus là một danh pháp được chính tác giả Lacépède mô tả dựa trên kiểu hình của loài này nhưng chỉ có một đốm vàng ở lưng.[16] Do có sự đa dạng về kiểu hình giữa cá đực và cá cái, cũng như những cá thể đang trong quá trình chuyển đổi giới tính, nên H. hortulanus từng được xem là những loài khác nhau.[19]

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của H. hortulanus chủ yếu là những con mồi có vỏ cứng, bao gồm nhuyễn thể, giáp xáccầu gai.[15]

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

H. hortulanus được đánh bắt trong các hoạt động buôn bán cá cảnh.[1] Cá có kích thước lớn có thể được bán trong các chợ cá.[15]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c Rocha, L. & Craig, M. (2010). Halichoeres hortulanus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T187673A8596689. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187673A8596689.en. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ a b Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Order Labriformes: Family Labridae (a-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2022.
  3. ^ Mazza, Giuseppe (2008). “Halichoeres hortulanus”. Monaco Nature Encyclopedia. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2022.
  4. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Labrus hortulanus. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2022.
  5. ^ Nguyễn Văn Long (2016). “Hiện trạng và biến động quần xã cá rạn san hô ở khu bảo tồn biển Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” (PDF). Tuyển tập Nghiên Cứu Biển. 22: 111–125.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  6. ^ Nguyễn Văn Long; Mai Xuân Đạt (2020). “Đặc trưng nguồn lợi cá trong các hệ sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm - Hội An” (PDF). Vietnam Journal of Marine Science and Technology. 20 (1): 105–120. doi:10.15625/1859-3097/13553. ISSN 1859-3097.
  7. ^ Nguyễn Văn Long (2013). “Nguồn lợi cá rạn san hô vùng biển ven bờ Phú Yên”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 13 (1): 31–40. ISSN 1859-3097.
  8. ^ Nguyễn Văn Long (2009). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ Nam Trung Bộ”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển T9. 3: 38–66.
  9. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  10. ^ Mai Xuân Đạt (2019). “Cá rạn san hô trong các bãi ngầm và đảo đá ở vùng biển ngoài khơi tỉnh Bình Thuận”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 19 (4A): 259–271. doi:10.15625/1859-3097/19/4A/14590. ISSN 1859-3097.[liên kết hỏng]
  11. ^ Nguyễn Hữu Phụng; Nguyễn Văn Long (1996). “Một số kết quả nghiên cứu cá rạn san hô ở An Thới (Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang)” (PDF). Tuyển tập nghiên cứu biển. 7: 84–93.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  12. ^ Trần Ngọc Cường biên tập (2013). “Thông Tin Về Đất Ngập Nước Ramsar (RIS) – Côn Đảo” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2022. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  13. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2002). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  14. ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Halichoeres hortulanus trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  15. ^ a b c Westneat, M. W. (2001). “Labridae”. Trong K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Volume 6. Bony Fishes Part 4 (Labridae to Latimeriidae) (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3434. ISBN 978-9251045893.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  16. ^ a b c John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 317. ISBN 978-0824818951.
  17. ^ a b John E. Randall (1995). Coastal Fishes of Oman. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 278. ISBN 978-0824818081.
  18. ^ Joe Shields (biên tập). Halichoeres hortulanus Labridae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2022.
  19. ^ Sarhan, Moustafa; Azab, Ahmed M.; Khalaf-Allah, Hassan M. M.; Afifi, Moharam A. M. (2019). “DNA barcoding supports sexual dimorphism in two Labrid species; Cheilinus lunulatus and Halichoeres hortulanus (Family Labridae) in Red Sea, Egypt”. The Egyptian Journal of Aquatic Research. 45 (4): 395–401. doi:10.1016/j.ejar.2019.10.002. ISSN 1687-4285.