Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kiya”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
{{Thông tin nhân vật hoàng gia|tên=Kiya|tước vị=|hình=KV55-CanopicJar-AmarnaQueen-CloseUp MetropolitanMuseum.png|ghi chú hình=|phối ngẫu=[[Akhenaten]]|con cái=Con gái không rõ tên<br> ([[Beketaten]] ?)|hoàng tộc=[[Eighteenth Dynasty of Egypt|18th of Egypt]]|tên ngai=<hiero>V31:Z4-i-A-B1</hiero>hoặc<br><hiero>k:i-Z4:A-B7</hiero>|cha=[[Amenhotep III]] (?)|mẹ=[[Tiye]] (?)|nơi an táng=[[KV35]] (?)}}
{{Thông tin nhân vật hoàng gia|tên=Kiya|tước vị=|hình=KV55-CanopicJar-AmarnaQueen-CloseUp MetropolitanMuseum.png|cỡ hình=200px|phối ngẫu=[[Akhenaten]]|con cái=Con gái không rõ tên<br> ([[Beketaten]] ?)|hoàng tộc=[[Eighteenth Dynasty of Egypt|18th of Egypt]]|tên ngai=<hiero>V31:Z4-i-A-B1</hiero>hoặc<br><hiero>k:i-Z4:A-B7</hiero>|cha=[[Amenhotep III]] (?)|mẹ=[[Tiye]] (?)|nơi an táng=[[KV35]] (?)}}


'''Kiya''' là một trong những người vợ của Pharaoh [[Akhenaton|Akhenaten]]. Xuất thân cũng như cuộc đời của bà cho đến nay vẫn còn là bí ẩn.
'''Kiya''' là một trong những người vợ của pharaon [[Akhenaton|Akhenaten]]. Xuất thân cũng như cuộc đời của bà cho đến nay vẫn còn là bí ẩn.


Theo những gì ghi nhận được, bà có vai trò quan trọng trong những năm giữa triều đại Akhenaten, khi bà sinh cho ông một con gái<ref name="Murnane">William J. Murnane. ''Texts from the Amarna Period in Egypt.'' Edited by E.S. Meltzer. Atlanta: Society of Biblical Literature, 1995. ({{ISBN|1-55540-966-0}}) Page 9, pp 90–93, pp 210–211.</ref><ref name="Dodson2009">Aidan Dodson. Amarna Sunset: Nefertiti, Tutankhamun, Ay, Horemheb, and the Egyptian Counter Reformation. The American University in Cairo Press, 2009. ({{ISBN|978-977-416-304-3}}) Page 17.</ref>. Bà biến mất hoàn toàn trong lịch sử chỉ vài năm trước cái chết của chồng.
Theo những gì ghi nhận được, bà có vai trò quan trọng trong những năm giữa triều đại Akhenaten, khi bà sinh cho ông một con gái<ref name="Murnane">William J. Murnane. ''Texts from the Amarna Period in Egypt.'' Edited by E.S. Meltzer. Atlanta: Society of Biblical Literature, 1995. ({{ISBN|1-55540-966-0}}) Page 9, pp 90–93, pp 210–211.</ref><ref name="Dodson2009">Aidan Dodson. Amarna Sunset: Nefertiti, Tutankhamun, Ay, Horemheb, and the Egyptian Counter Reformation. The American University in Cairo Press, 2009. ({{ISBN|978-977-416-304-3}}) Page 17.</ref>. Bà biến mất hoàn toàn trong lịch sử chỉ vài năm trước cái chết của chồng.
Dòng 10: Dòng 10:
Theo những [[bức thư Amarna]] thứ 27 tới 29, người ta xác nhận rằng Tadukhepa đã tái giá với con trai Amenhotep, tức [[Akhenaton|Akhenaten]]. Do vậy mà một số nhà [[Ai Cập học]] cho rằng Tadukhipa và Kiya có thể là cùng một người<ref name=":0">William J. Murnane. ''Texts from the Amarna Period in Egypt.'' Edited by E.S. Meltzer. Atlanta: Society of Biblical Literature, 1995. (<nowiki>ISBN 1-55540-966-0</nowiki>)</ref>. Tuy nhiên, lại không có bất cứ bằng chứng cụ thể nào cho thấy bà là một người ngoại quốc<ref>Jacobus Van Dijk, "The Noble Lady of Mitanni and Other Royal Favourites of the Eighteenth Dynasty" in ''Essays on Ancient Egypt in Honour of Herman te Velde,'' Groningen, 1997, tr. 35–37</ref><ref>Cyril Aldred. ''Akhenaten, King of Egypt''. Thames & Hudson, 1991. (<nowiki>ISBN 0-500-27621-8</nowiki>), tr.286</ref>.
Theo những [[bức thư Amarna]] thứ 27 tới 29, người ta xác nhận rằng Tadukhepa đã tái giá với con trai Amenhotep, tức [[Akhenaton|Akhenaten]]. Do vậy mà một số nhà [[Ai Cập học]] cho rằng Tadukhipa và Kiya có thể là cùng một người<ref name=":0">William J. Murnane. ''Texts from the Amarna Period in Egypt.'' Edited by E.S. Meltzer. Atlanta: Society of Biblical Literature, 1995. (<nowiki>ISBN 1-55540-966-0</nowiki>)</ref>. Tuy nhiên, lại không có bất cứ bằng chứng cụ thể nào cho thấy bà là một người ngoại quốc<ref>Jacobus Van Dijk, "The Noble Lady of Mitanni and Other Royal Favourites of the Eighteenth Dynasty" in ''Essays on Ancient Egypt in Honour of Herman te Velde,'' Groningen, 1997, tr. 35–37</ref><ref>Cyril Aldred. ''Akhenaten, King of Egypt''. Thames & Hudson, 1991. (<nowiki>ISBN 0-500-27621-8</nowiki>), tr.286</ref>.


Cái tên [Kiya] gây nhiều tranh luận, vì từ này dường như chỉ đến một biệt danh hơn là một tên riêng. Nhiều ý kiến móc nối cái tên này có lẽ là một dạng danh hiệu ám chỉ đến một người từ nước ngoài đến, như [Tadukhipa] chẳng hạn. Điều này khiến nhiều người vẫn còn tin bà đến từ một vùng đất khác ngoài Ai Cập. Nhưng [[Cyril Aldred]] chứng minh rằng, cái tên [Kiya] là một biến thể của từ con [[khỉ]] trong ngôn ngữ Ai Cập cổ đại, và điều này cũng khiến cho lập luận ''"Kiya đến từ ngoại quốc"'' trước đó bị yếu đi<ref>Cyril Aldred. Akhenaten, King of Egypt. Thames & Hudson, 1991. ({{ISBN|0-500-27621-8}}) Page 286.</ref>.
Cái tên Kiya gây nhiều tranh luận, vì từ này dường như chỉ đến một biệt danh hơn là một tên riêng. Nhiều ý kiến móc nối cái tên này có lẽ là một dạng danh hiệu ám chỉ đến một người từ nước ngoài đến, như Tadukhipa chẳng hạn. Điều này khiến nhiều người vẫn còn tin bà đến từ một vùng đất khác ngoài Ai Cập. Nhưng [[Cyril Aldred]] chứng minh rằng, cái tên Kiya là một biến thể của từ con [[khỉ]] trong ngôn ngữ Ai Cập cổ đại, và điều này cũng khiến cho lập luận ''"Kiya đến từ ngoại quốc"'' trước đó bị yếu đi<ref>Cyril Aldred. Akhenaten, King of Egypt. Thames & Hudson, 1991. ({{ISBN|0-500-27621-8}}) Page 286.</ref>.


Bên cạnh đó, Kiya được ban danh hiệu ''"Người được sủng ái"'' và ''"Người rất được yêu quý"'', mà không phải ''"Người vợ vĩ đại"'' đã chứng tỏ bà không xuất thân từ vương tộc Ai Cập. Danh hiệu đầy đủ của bà là:''"Người vợ được yêu quý và sủng ái của Chủ nhân vùng Hạ và Thượng Ai Cập. Biểu thị của lẽ phải, Chúa tể của hai vùng đất, Neferkheperure Waenre, đứa con rực rỡ của thần Aten vĩnh cữu, người sẽ mãi mãi trường tồn, Kiya"''.
Bên cạnh đó, Kiya được ban danh hiệu ''"Người được sủng ái"'' và ''"Người rất được yêu quý"'', mà không phải ''"Người vợ vĩ đại"'' đã chứng tỏ bà không xuất thân từ vương tộc Ai Cập. Danh hiệu đầy đủ của bà là:''"Người vợ được yêu quý và sủng ái của Chủ nhân vùng Hạ và Thượng Ai Cập. Biểu thị của lẽ phải, Chúa tể của hai vùng đất, Neferkheperure Waenre, đứa con rực rỡ của thần Aten vĩnh cữu, người sẽ mãi mãi trường tồn, Kiya"''.
Dòng 26: Dòng 26:


==Xác ướp Quý bà trẻ ==
==Xác ướp Quý bà trẻ ==
Nhà Ai Cập học cho rằng xác ướp trên là của [[Nefertiti]], chính thất của [[Akhenaton|Akhenaten]]. Trong khi đó, nhà Ai Cập học [[Zahi Hawass]] lại tin rằng đó là của Kiya. Sau khi có kết quả phân tích ADN, xác ướp [[Quý cô trẻ hơn|Quý bà trẻ hơn]] ("The Younger Lady") trong lăng mộ [[KV35]] được cho chắn chắn là mẹ của [[Tutankhamun]], và cũng là chị/em ruột cùng cha cùng mẹ với [[Akhenaton]]<ref>Hawass Z, Gad YZ, Ismail S, Khairat R, Fathalla D, Hasan N, Ahmed A, Elleithy H, Ball M, Gaballah F, Wasef S, Fateen M, Amer H, Gostner P, Selim A, Zink A, Pusch CM (February 2010). "Ancestry and Pathology in King Tutankhamun's Family". ''JAMA: the Journal of the American Medical Association''. '''303''' (7): 638–47. </ref>. Tuy nhiên, tên của xác ướp này vẫn chưa được xác định rõ.
Nhà Ai Cập học cho rằng xác ướp trên là của [[Nefertiti]], chính thất của [[Akhenaton|Akhenaten]]. Trong khi đó, nhà Ai Cập học [[Zahi Hawass]] lại tin rằng đó là của Kiya. Sau khi có kết quả phân tích ADN, xác ướp [[Quý bà trẻ]] ("The Younger Lady") trong lăng mộ [[KV35]] được cho chắn chắn là mẹ của [[Tutankhamun]], và cũng là chị/em ruột cùng cha cùng mẹ với [[Akhenaton]]<ref>Hawass Z, Gad YZ, Ismail S, Khairat R, Fathalla D, Hasan N, Ahmed A, Elleithy H, Ball M, Gaballah F, Wasef S, Fateen M, Amer H, Gostner P, Selim A, Zink A, Pusch CM (February 2010). "Ancestry and Pathology in King Tutankhamun's Family". ''JAMA: the Journal of the American Medical Association''. '''303''' (7): 638–47. </ref>. Tuy nhiên, tên của xác ướp này vẫn chưa được xác định rõ.


Nếu đúng đó là xác ướp của Kiya, thì bà chính là mẹ đẻ của [[Tutankhamun]] và là con gái của [[Amenhotep III]] với [[Tiye]]. Điều này vẫn còn gây tranh cãi. Theo các bản khắc văn tự cổ, bà chỉ được gọi là "Người yêu dấu của vua" nhưng lại không được gọi là "Con gái của vua" hay "Người vợ hoàng gia vĩ đại"; chính vì thế bà không thuộc dòng dõi hoàng gia, kể cả Neferiti<ref>Hawass Z; et al. (2010). "Ancestry and pathology in King Tutankhamun's family". ''JAMA''. '''303''' (7): 3</ref>. Tuy nhiên, đa số các nhà Ai Cập học hiện nay tin rằng "Quý bà trẻ hơn" thực chất là Kiya.
Nếu đúng đó là xác ướp của Kiya, thì bà chính là mẹ đẻ của [[Tutankhamun]] và là con gái của [[Amenhotep III]] với [[Tiye]]. Điều này vẫn còn gây tranh cãi. Theo các bản khắc văn tự cổ, bà chỉ được gọi là "Người yêu dấu của vua" nhưng lại không được gọi là "Con gái của vua" hay "Người vợ hoàng gia vĩ đại"; chính vì thế bà không thuộc dòng dõi hoàng gia, kể cả Neferiti<ref>Hawass Z; et al. (2010). "Ancestry and pathology in King Tutankhamun's family". ''JAMA''. '''303''' (7): 3</ref>. Tuy nhiên, đa số các nhà Ai Cập học hiện nay tin rằng "Quý bà trẻ hơn" thực chất là Kiya.
Dòng 42: Dòng 42:


==Chú thích ==
==Chú thích ==
{{tham khảo|2}}
{{tham khảo|3}}


[[Thể loại:Vương triều thứ Mười tám của Ai Cập]]
[[Thể loại:Vương triều thứ Mười tám của Ai Cập]]

Phiên bản lúc 04:44, ngày 24 tháng 3 năm 2019

Kiya
Thông tin chung
An tángKV35 (?)
Phối ngẫuAkhenaten
Hậu duệCon gái không rõ tên
(Beketaten ?)
Tên ngai
V31
Z4
iAB1
hoặc
k
i
Z4
A
B7
Hoàng tộc18th of Egypt
Thân phụAmenhotep III (?)
Thân mẫuTiye (?)

Kiya là một trong những người vợ của pharaon Akhenaten. Xuất thân cũng như cuộc đời của bà cho đến nay vẫn còn là bí ẩn.

Theo những gì ghi nhận được, bà có vai trò quan trọng trong những năm giữa triều đại Akhenaten, khi bà sinh cho ông một con gái[1][2]. Bà biến mất hoàn toàn trong lịch sử chỉ vài năm trước cái chết của chồng.

Thân thế và tên gọi

Nguồn gốc xuất thân của Kiya gây nhiều tranh cãi. Theo một giả thuyết, bà là một Công chúa tên Tadukhepa đến từ Vương quốc Mitanni[3]. Tadukhepa cưới Amenhotep III vào những tháng ngày cuối trị vì của ông khi còn trẻ.

Theo những bức thư Amarna thứ 27 tới 29, người ta xác nhận rằng Tadukhepa đã tái giá với con trai Amenhotep, tức Akhenaten. Do vậy mà một số nhà Ai Cập học cho rằng Tadukhipa và Kiya có thể là cùng một người[4]. Tuy nhiên, lại không có bất cứ bằng chứng cụ thể nào cho thấy bà là một người ngoại quốc[5][6].

Cái tên Kiya gây nhiều tranh luận, vì từ này dường như chỉ đến một biệt danh hơn là một tên riêng. Nhiều ý kiến móc nối cái tên này có lẽ là một dạng danh hiệu ám chỉ đến một người từ nước ngoài đến, như Tadukhipa chẳng hạn. Điều này khiến nhiều người vẫn còn tin bà đến từ một vùng đất khác ngoài Ai Cập. Nhưng Cyril Aldred chứng minh rằng, cái tên Kiya là một biến thể của từ con khỉ trong ngôn ngữ Ai Cập cổ đại, và điều này cũng khiến cho lập luận "Kiya đến từ ngoại quốc" trước đó bị yếu đi[7].

Bên cạnh đó, Kiya được ban danh hiệu "Người được sủng ái""Người rất được yêu quý", mà không phải "Người vợ vĩ đại" đã chứng tỏ bà không xuất thân từ vương tộc Ai Cập. Danh hiệu đầy đủ của bà là:"Người vợ được yêu quý và sủng ái của Chủ nhân vùng Hạ và Thượng Ai Cập. Biểu thị của lẽ phải, Chúa tể của hai vùng đất, Neferkheperure Waenre, đứa con rực rỡ của thần Aten vĩnh cữu, người sẽ mãi mãi trường tồn, Kiya".

Cuộc đời

Mãi cho đến năm 1959, tên và danh hiệu của Kiya mới được biết tới thông qua những dòng chữ khắc trên một cái bình nhỏ được lưu giữ tại Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan[8].

Tên của Kiya được khắc trên một ngôi đền với tên gọi là Maru-Aten. Nhưng những ký tự tên bà lại bị sửa thành Meritaten, con gái lớn của chồng bà. Nhiều bản khắc có tên bà trên các nhà nguyện, đền thờ cũng bị đổi sang tên của chị em Meritaten và Ankhesenpaaten[4].

Bên trong lăng mộ KV55, có một chiếc quan tài gỗ được mạ vàng. Trên chiếc giường đặt quan tài có khắc một lời cầu nguyện dành cho một phụ nữ, nhưng sau đó lại bị sửa thành dành cho đàn ông[9]. Các nhà sử học đều cho Kiya vốn là chủ sở hữu ban đầu của nó[10].

Những bức tranh về Kiya đều được khắc lại thành chân dung các thành viên khác trong hoàng tộc. Theo tiến sĩ Aidan Dodson, lời giải thích hợp lý cho sự biến mất đột ngột của bà là bị thất sủng. Nếu Kiya là mẹ của Tutankhamun, thì việc này có liên quan đến Nefertiti, do hoàng hậu không sinh được con trai nên đã "trả thù", theo Nicholas Reeves[11]. Sau khi lập luận rằng Kiya là công chúa ngoại quốc Tadukhipa, Marc Gabolde cho rằng bà bị trả về quê hương do sự rạn nứt trong mối quan hệ giữa Ai Cập và Mitanni[12].

Một số ghi chép còn sót lại cho thấy Kiya có một người con gái, nhưng không được lưu lại tên[4]. Nhà Ai Cập học Marc Gabolde cho rằng, Beketaten có thể là con gái bà[12]. Vì người mẹ bị thất sủng nên công chúa cũng bị ảnh hưởng, và tên của công chúa cũng bị xóa bỏ. Sau khi Kiya qua đời, có thể công chúa được nuôi bởi người bà của mình, Vương hậu Tiye[13].

Xác ướp Quý bà trẻ

Nhà Ai Cập học cho rằng xác ướp trên là của Nefertiti, chính thất của Akhenaten. Trong khi đó, nhà Ai Cập học Zahi Hawass lại tin rằng đó là của Kiya. Sau khi có kết quả phân tích ADN, xác ướp Quý bà trẻ ("The Younger Lady") trong lăng mộ KV35 được cho chắn chắn là mẹ của Tutankhamun, và cũng là chị/em ruột cùng cha cùng mẹ với Akhenaton[14]. Tuy nhiên, tên của xác ướp này vẫn chưa được xác định rõ.

Nếu đúng đó là xác ướp của Kiya, thì bà chính là mẹ đẻ của Tutankhamun và là con gái của Amenhotep III với Tiye. Điều này vẫn còn gây tranh cãi. Theo các bản khắc văn tự cổ, bà chỉ được gọi là "Người yêu dấu của vua" nhưng lại không được gọi là "Con gái của vua" hay "Người vợ hoàng gia vĩ đại"; chính vì thế bà không thuộc dòng dõi hoàng gia, kể cả Neferiti[15]. Tuy nhiên, đa số các nhà Ai Cập học hiện nay tin rằng "Quý bà trẻ hơn" thực chất là Kiya.

Hình ảnh

Liên kết ngoài

Chú thích

  1. ^ William J. Murnane. Texts from the Amarna Period in Egypt. Edited by E.S. Meltzer. Atlanta: Society of Biblical Literature, 1995. (ISBN 1-55540-966-0) Page 9, pp 90–93, pp 210–211.
  2. ^ Aidan Dodson. Amarna Sunset: Nefertiti, Tutankhamun, Ay, Horemheb, and the Egyptian Counter Reformation. The American University in Cairo Press, 2009. (ISBN 978-977-416-304-3) Page 17.
  3. ^ Reeves, C. Nicholas. New Light on Kiya from Texts in the British Museum, p.100 The Journal of Egyptian Archaeology, Vol. 74 (1988)
  4. ^ a b c William J. Murnane. Texts from the Amarna Period in Egypt. Edited by E.S. Meltzer. Atlanta: Society of Biblical Literature, 1995. (ISBN 1-55540-966-0)
  5. ^ Jacobus Van Dijk, "The Noble Lady of Mitanni and Other Royal Favourites of the Eighteenth Dynasty" in Essays on Ancient Egypt in Honour of Herman te Velde, Groningen, 1997, tr. 35–37
  6. ^ Cyril Aldred. Akhenaten, King of Egypt. Thames & Hudson, 1991. (ISBN 0-500-27621-8), tr.286
  7. ^ Cyril Aldred. Akhenaten, King of Egypt. Thames & Hudson, 1991. (ISBN 0-500-27621-8) Page 286.
  8. ^ Dennis Forbes, "The Lady Wearing Large Earrings: Royal Wife Kiya, Nefertiti's Rival", KMT. volume 17, number 3 (Fall 2006), tr.28
  9. ^ William J. Murnane. Texts from the Amarna Period in Egypt. Edited by E.S. Meltzer. Atlanta: Society of Biblical Literature, 1995. (ISBN 1-55540-966-0), tr.243
  10. ^ Cyril Aldred. Akhenaten, King of Egypt. Thames & Hudson, 1991. (ISBN 0-500-27621-8), tr. 205
  11. ^ Nicholas Reeves. "The Royal Family." In Pharaohs of the Sun, ed. RE Freed, YJ Markowitz, SH D'Auria. Museum of Fine Arts Boston, 1999. (ISBN 0-8212-2620-7) tr. 91–92
  12. ^ a b Marc Gabolde. The End of the Amarna Period.
  13. ^ Kramer, Enigmatic Kiya, from: A Delta-man in Yebu edited by A. K. Eyma, C. J. Bennett,Universal-Publishers, 2003
  14. ^ Hawass Z, Gad YZ, Ismail S, Khairat R, Fathalla D, Hasan N, Ahmed A, Elleithy H, Ball M, Gaballah F, Wasef S, Fateen M, Amer H, Gostner P, Selim A, Zink A, Pusch CM (February 2010). "Ancestry and Pathology in King Tutankhamun's Family". JAMA: the Journal of the American Medical Association303 (7): 638–47. 
  15. ^ Hawass Z; et al. (2010). "Ancestry and pathology in King Tutankhamun's family". JAMA303 (7): 3