Bước tới nội dung

Adinazolam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Adinazolam
Dữ liệu lâm sàng
Dược đồ sử dụngOral
Mã ATC
Tình trạng pháp lý
Tình trạng pháp lý
Dữ liệu dược động học
Chuyển hóa dược phẩmGan
Chu kỳ bán rã sinh học< 3 hours
Bài tiếtThận
Các định danh
Tên IUPAC
  • 1-(8-Chloro-6-phenyl-4H-[1,2,4]triazolo[4,5-a][1,4]benzodiazepin-1-yl)-N,N-dimethylmethanamine
Số đăng ký CAS
PubChem CID
DrugBank
ChemSpider
Định danh thành phần duy nhất
KEGG
ChEBI
ChEMBL
Dữ liệu hóa lý
Công thức hóa họcC19H18ClN5
Khối lượng phân tử351.8
Mẫu 3D (Jmol)
SMILES
  • Clc3cc2\C(=N/Cc1nnc(n1c2cc3)CN(C)C)c4ccccc4
Định danh hóa học quốc tế
  • InChI=1S/C19H18ClN5/c1-24(2)12-18-23-22-17-11-21-19(13-6-4-3-5-7-13)15-10-14(20)8-9-16(15)25(17)18/h3-10H,11-12H2,1-2H3 ☑Y
  • Key:GJSLOMWRLALDCT-UHFFFAOYSA-N ☑Y
  (kiểm chứng)

Adinazolam [1] (được bán dưới tên Deracyn) là một dẫn xuất của benzodiazepine, và cụ thể hơn là một triazolobenzodiazepine (TBZD). Nó có tính chất giải lo âu,[2] chống co giật, an thầnchống trầm cảm [3][4]. Adinazolam được phát triển bởi Tiến sĩ Jackson B. Hester, người đang tìm cách tăng cường các đặc tính chống trầm cảm của alprazolam, mà ông cũng đã phát triển.[5] Adinazolam không bao giờ được FDA chấp thuận và không bao giờ được cung cấp cho thị trường công cộng, tuy nhiên nó đã được bán dưới dạng thuốc thiết kế.[6]

Tác dụng phụ

[sửa | sửa mã nguồn]

Quá liều có thể bao gồm yếu cơ, mất điều hòa, rối loạn chức năng và đặc biệt ở trẻ em hưng phấn nghịch lý, cũng như phản xạ giảm, lú lẫn và hôn mê có thể xảy ra trong trường hợp nghiêm trọng hơn.[7]

Một nghiên cứu ở người so sánh tác dụng chủ quan và khả năng lạm dụng của adinazolam (30   mg và 50   mg) với diazepam, lorazepam và giả dược cho thấy adinazolam gây ra "sự an thần và thể chất" nhất và "khó chịu tinh thần" lớn nhất.[8]

Dược động học và dược động học

[sửa | sửa mã nguồn]

Adinazolam liên kết với các thụ thể benzodiazepine loại ngoại vi tương tác allosteric với thụ thể GABA như một chất chủ vận để tạo ra tác dụng ức chế.

Chuyển hóa

[sửa | sửa mã nguồn]

Adinazolam đã được báo cáo là có chất chuyển hóa hoạt động trong số tháng 8 năm 1984 của Tạp chí Dược và Dược.[9] Chất chuyển hóa chính là N-desmethyladinazolam.[10] NDMAD có ái lực cao khoảng 25 lần đối với các thụ thể benzodiazepine so với tiền chất của nó, chiếm các tác dụng giống như benzodiazepine sau khi uống.[1] Nhiều N-dealkylation dẫn đến việc loại bỏ chuỗi bên dimethylaminomethyl, dẫn đến sự khác biệt về tiềm năng của nó.[10] Hai chất chuyển hóa khác là alpha-hydroxyalprazolam và estazolam.[11] Trong số tháng 8 năm 1986 của cùng một tạp chí, Sethy, Francis và Day đã báo cáo rằng proadifen đã ức chế sự hình thành của N-desmethyladinazolam.[12]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b FR Patent 2248050
  2. ^ Karthik Venkatakrishnan; Lisa L. Von Moltke; Su Xiang Duan; Joseph C. Fleishaker; Richard I. Shader; David J. Greenblat (tháng 3 năm 1998). “Kinetic Characterization and Identification of the Enzymes Responsible for the Hepatic Biotransformation of Adinazolam and N-Desmethyladinazolam in Man”. Journal of Pharmacy and Pharmacology. 50 (3): 265–274. doi:10.1111/j.2042-7158.1998.tb06859.x. PMID 9600717.
  3. ^ Dunner D, Myers J, Khan A, Avery D, Ishiki D, Pyke R (tháng 6 năm 1998). “Adinazolam-A New Antidepressant: Findings of a Placebo-Controlled, Double-Blind Study in Outpatients with Major Depression”. Journal of Clinical Psychopharmacology. 7 (3): 170–172. doi:10.1097/00004714-198706000-00010. PMID 3298327.
  4. ^ Lahti, Robert A.; Vimala H. Sethy; Craig Barsuhn; Jackson B. Hester (tháng 11 năm 1983). “Pharmacological profile of the antidepressant adinazolam, a triazolobenzodiazepine”. Neuropharmacology. 22 (11): 1277–82. doi:10.1016/0028-3908(83)90200-9. PMID 6320036.
  5. ^ “Discovers Award 2004” (PDF). Special Publications. Pharmaceutical Research and Manufacturers of America. tháng 4 năm 2004. tr. 39. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2006. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2006.
  6. ^ Moosmann, Bjoern; Bisel, Philippe; Franz, Florian; Huppertz, Laura M.; Auwärter, Volker (2016). “Characterization and in vitro phase I microsomal metabolism of designer benzodiazepines – an update comprising adinazolam, cloniprazepam, fonazepam, 3-hydroxyphenazepam, metizolam, and nitrazolam”. Journal of Mass Spectrometry. 51 (11): 1080–1089. doi:10.1002/jms.3840. ISSN 1096-9888. PMID 27535017.
  7. ^ “Adinazolam”. DrugBank.
  8. ^ M. Bird; D. Katz; M. Orzack; L. Friedman; E. Dessain; B. Beake; J. McEachern; J. Cole (1987). “The Abuse Potential of Adinazolam: A Comparison with Diazepam, Lorazepam and Placebo” (PDF). NIDA Research Monograph No. 81. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2019.
  9. ^ Sethy, Vimala H.; R. J. Collins; E. G. Daniels (tháng 8 năm 1984). “Determination of biological activity of adinazolam and its metabolites”. Journal of Pharmacy and Pharmacology. 36 (8): 546–8. doi:10.1111/j.2042-7158.1984.tb04449.x. PMID 6148400.
  10. ^ a b Peng, G. W. (tháng 8 năm 1984). “Assay of adinazolam in plasma by liquid chromatography”. Journal of Pharmaceutical Sciences. 73 (8): 1173–5. doi:10.1002/jps.2600730840. PMID 6491930.
  11. ^ Fraser, A. D.; A. F. Isner; W. Bryan (November–December 1993). “Urinary screening for adinazolam and its major metabolites by the Emit d.a.u. and FPIA benzodiazepine assays with confirmation by HPLC”. Journal of Analytical Toxicology. 17 (7): 427–31. doi:10.1093/jat/17.7.427. PMID 8309217.
  12. ^ Sethy, Vimala H.; Jonathan W. Francis; J. S. Day (tháng 8 năm 1986). “The effect of proadifen on the metabolism of adinazolam”. Journal of Pharmacy and Pharmacology. 38 (8): 631–2. doi:10.1111/j.2042-7158.1986.tb03099.x. PMID 2876087.