Bước tới nội dung

Bathygobius cocosensis

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bathygobius cocosensis
Phân loại khoa học edit
Vực: Eukaryota
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Gobiiformes
Họ: Gobiidae
Chi: Bathygobius
Loài:
B. cocosensis
Danh pháp hai phần
Bathygobius cocosensis
(Bleeker, 1854)
Các đồng nghĩa
Danh sách
    • Gobius cocosensis Bleeker, 1854
    • Gobius homocyanus Vaillant & Sauvage, 1875
    • Gobius sandvicensis Günther, 1880
    • Rhinogobius corallinus Jordan & Seale, 1906
    • Gobius ophthalmicus Weber, 1909
    • Gobius elmeri Herre, 1940
    • Bathygobius fuscus pulcher Fowler, 1945
    • Chlamydes versicolor Fowler, 1945

Bathygobius cocosensis là một loài cá biển thuộc chi Bathygobius trong họ Cá bống trắng. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1854.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh cocosensis được đặt theo tên gọi của quần đảo Cocos (Keeling) (–ensis: hậu tố trong tiếng Latinh biểu thị nơi chốn), là nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập.[2]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ Đông PhiNam Phi, B. cocosensis có phân bố trải rộng khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, về phía đông đến quần đảo HawaiiPitcairn, ngược lên phía bắc đến miền nam Nhật Bản, xa về phía nam đến Úc và đảo Rapa Iti.[1] B. cocosensis đã mở rộng phạm vi về phía tây bắc, khi chúng được quan sát và thu thập ở bờ vịnh Oman thuộc Iran.[3]

B. cocosensis được tìm thấy ở vùng gian triều, sống trong các vũng thủy triều có nền đá vụn hoặc cát bùn và trên rạn san hô, độ sâu đến khoảng 10 m.[4]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở B. cocosensis là 12 cm.[4] Đầu và thân màu nâu xám, có 5 đốm lưng màu nâu sẫm, nối với hàng đốm nâu sẫm ngay giữa thân. Nửa thân dưới có các sọc mờ sẫm. Đốm đen sau mắt và trên nắp mang. Cá đực có màu sẫm hơn và ít đốm hơn cá cái.

Số gai vây lưng: 7; Số tia vây lưng: 8–10; Số gai vây hậu môn: 1; Số tia vây hậu môn: 8; Số gai vây bụng: 1; Số tia vây bụng: 5; Số tia vây ngực: 17–20.[5]

Phân loại

[sửa | sửa mã nguồn]

Phân tích đầy đủ bộ DNA ty thể của B. cocosensis cho thấy loài này có quan hệ gần nhất với chi Glossogobius.[6]

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

Kiểm tra các chất trong ruột của B. cocosensis thấy có giun nhiều tơ, chân đều, giáp xác chân khớpcua.[4]

B. cocosensis có khả năng thay đổi độ sáng của màu cơ thể theo nhiệt độ để thích nghi với môi trường sống của chúng.[7]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Larson, H. (2019). Bathygobius cocosensis. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2019: e.T193179A2205373. doi:10.2305/IUCN.UK.2019-1.RLTS.T193179A2205373.en. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2024.
  2. ^ Christopher Scharpf biên tập (2024). “Order Gobiiformes: Family Gobiidae (a-c)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ Sadeghi, Reza; Esmaeili, Hamid Reza (2019). “Cocos Frillgoby, Bathygobius cocosensis (Bleeker, 1854): an additional fish element for the Iranian marine waters (Teleostei: Gobiidae)”. International Journal of Aquatic Biology. 7 (3): 117–122. doi:10.22034/ijab.v7i3.613. ISSN 2322-5270.
  4. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Bathygobius cocosensis trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  5. ^ Helen K. Larson (2022). “Gobiidae”. Trong Phillip C. Heemstra; E. Heemstra; David A. Ebert; W. Holleman; John E. Randall (biên tập). Coastal fishes of the western Indian Ocean (tập 5) (PDF). South African Institute for Aquatic Biodiversity. tr. 49-50.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  6. ^ Evans, Jennifer L.; Thia, Joshua A.; Riginos, Cynthia; Hereward, James P. (2018). “The complete mitochondrial genome of Bathygobius cocosensis (Perciformes, Gobiidae)”. Mitochondrial DNA Part B. 3 (1): 217–219. doi:10.1080/23802359.2018.1437824. ISSN 2380-2359. PMC 7800291. PMID 33490499.
  7. ^ da Silva, Carmen R. B.; van den Berg, Cedric P.; Condon, Nicholas D.; Riginos, Cynthia; Wilson, Robbie S.; Cheney, Karen L. (2020). “Intertidal gobies acclimate rate of luminance change for background matching with shifts in seasonal temperature”. Journal of Animal Ecology. 89 (7): 1735–1746. doi:10.1111/1365-2656.13226. ISSN 0021-8790.