Hư cấu

Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Hư cấu nghệ thuật)

Một minh họa từ Lewis Carroll 's Adventures của Alice in Wonderland, miêu tả hư cấu nhân vật chính, Alice, chơi một trò chơi croquet kỳ ảo.

Hư cấu hay giả tưởng nói chung là một hình thức kể chuyện, trong bất kỳ phương tiện nào, bao gồm người, sự kiện hoặc địa điểm là những từ tưởng tượng khác, không dựa trên lịch sử hoặc thực tế.[1][2][3] Trong cách sử dụng hẹp nhất của nó, tiểu thuyết đề cập đến các câu chuyện bằng văn bản trong văn xuôi và thường là tiểu thuyết,[4][5] mặc dù cũng có trong tiểu thuyết ngắntruyện ngắn. Nhìn rộng hơn, hư cấu bao gồm các câu chuyện với các yếu tố tưởng tượng ở bất kỳ định dạng nào, bao gồm không chỉ trong chữ viết mà còn trong kịch nghệ, điện ảnh, chương trình truyền hình, phim truyền hình qua truyền thanh, truyện tranh, trò chơi nhập vaitrò chơi video.

Định nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]

Một tác phẩm hư cấu ngụ ý việc xây dựng một thế giới tưởng tượng và thông thường nhất là tính hư cấu của nó được thừa nhận công khai, vì vậy khán giả của nó thường hy vọng nó sẽ đi chệch hướng trong một số cách so với thế giới thực thay vì chỉ trình bày các nhân vật là người thực hoặc mô tả chính xác thực tế.[6] Tiểu thuyết thường được hiểu là không tuân thủ chính xác với thế giới thực, điều này cũng mở ra cho nó nhiều cách hiểu khác nhau.[7] Các nhân vật và sự kiện trong một tác phẩm hư cấu thậm chí có thể được đặt trong bối cảnh riêng của họ hoàn toàn tách biệt với vũ trụ đã biết: một vũ trụ hư cấu độc lập.

Trái ngược với hư cấu là đối nghịch truyền thống của nó: phi hư cấu, trong đó người sáng tạo nhận trách nhiệm chỉ trình bày sự thật lịch sử và thực tế. Mặc dù có sự phân biệt thông thường giữa tiểu thuyết và phi hư cấu, một số tác giả tiểu thuyết chắc chắn cố gắng khiến khán giả của họ tin rằng tác phẩm này không phải là hư cấu hoặc làm mờ ranh giới, thường thông qua các hình thức hư cấu thử nghiệm (bao gồm cả một số tiểu thuyết hậu hiện đại và tự động hóa) [8] hoặc thậm chí thông qua gian lận văn học có chủ ý.[9]

Các định dạng[sửa | sửa mã nguồn]

Theo truyền thống, các tác phẩm hư cấu bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện ngụ ngôn, truyền thuyết, thần thoại, truyện cổ tích, thơ sử thikể chuyện, các vở kịch (bao gồm vở opera, nhạc kịch, kịch, vở múa rốinhiều loại múa khác nhau). Tuy nhiên, hư cấu cũng có thể bao gồm truyện tranh, và nhiều phim hoạt hình, chuyển động dừng, anime, manga, phim, trò chơi video, chương trình radio, chương trình truyền hình (hài kịchphim truyền hình), v.v.

Internet đã có tác động lớn đến việc tạo và phân phối tiểu thuyết, đặt câu hỏi về tính khả thi của bản quyền như một phương tiện để đảm bảo tiền bản quyền được trả cho người giữ bản quyền.[10] Ngoài ra, các thư viện kỹ thuật số như Project Gutenberg làm cho các văn bản trong miền công cộng trở nên dễ dàng hơn. Sự kết hợp giữa máy tính gia đình rẻ tiền, Internet và sự sáng tạo của người dùng cũng đã dẫn đến các hình thức viễn tưởng mới, chẳng hạn như trò chơi máy tính tương tác hoặc truyện tranh do máy tính tạo ra. Vô số diễn đàn cho tiểu thuyết người hâm mộ có thể được tìm thấy trực tuyến, nơi những người theo dõi trung thành của các lĩnh vực hư cấu cụ thể tạo ra và phân phối các câu chuyện phái sinh. Internet cũng được sử dụng để phát triển tiểu thuyết blog, trong đó một câu chuyện được chuyển qua blog dưới dạng flash hư cấu hoặc blog nối tiếp và tiểu thuyết hợp tác, trong đó một câu chuyện được viết bởi các tác giả khác nhau hoặc toàn bộ văn bản có thể được sửa đổi bởi bất cứ ai sử dụng wiki.

Các thể loại hư cấu văn học trong văn xuôi được phân biệt theo độ dài tương đối và bao gồm:[11][11]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Trong giai đoạn đầu của nghệ thuật ngôn từ, hư cấu bộc lộ rõ rệt như một thứ giả tưởng không gì kiềm chế, nhưng nó lại chưa được ý thức ghi nhận. Văn học thời cổ đại và trung đại thường không phân giới giữa sự thật đời sống và sự thật nghệ thuật, do đó các sự kiện của truyền thuyết, sử thi, hạnh các thánh đều được coi như đã từng xảy ra. Những thể loại này hình thành nên cái gọi là hư cấu vô ý thức[14] và chỉ đến khi có sự ra đời của truyện cổ tích, hư cấu có ý thức mới thực sự xuất hiện.

Lần đầu tiên khái niệm hư cấu được các nhà tư tưởng cổ Hy Lạp triết luận trong những bình giảng về thơ ca, theo họ thi ca trước hết như là sự bắt chước, nhưng người sáng tác vẫn có quyền được hư cấu. Theo Platon, hư cấu đã có mặt ở thần thoại, theo Aristote nhà thơ nói về cái có thể chứ không nói về cái đã từng có. Sự hình thành hư cấu diễn ra chủ yếu ở dạng chủ động lý giải thần thoại (bi kịch cổ đại), và truyền thuyết lịch sử (ở các bài ca về công tích, các saga, anh hùng ca), đặc biệt thuận lợi cho việc củng cố hư cấu của cá nhân là các thể loại vừa cười cợt vừa nghiêm túc ở cuối thời cổ đại Hy Lạp.

Sự gia tăng tính tích cực của hư cấu trong văn học nghệ thuật của thời đại mới khởi điểm với Thần khúc của Dante, tiếp tục với sự biến cải hình tượng nghệ thuật và cốt truyện truyền thống trong những sáng tác của G. Boccaccio, W. Shapespeare, truyện của F. Rabelais và phát triển mạnh với khuynh hướng văn học tiền lãng mạnlãng mạn chủ nghĩa.

Ở văn học của chủ nghĩa hiện thực thế kỷ 19, khoảng cách giữa thực tại khởi nguyên và thế giới nghệ thuật được thu ngắn lại, hư cấu thường lùi lại trước sự tái hiện các sự việc và con người mà cá nhân tác giả biết rõ[15]. Nhấn mạnh con người, sự kiện có thực trong tác phẩm, các nhà văn tỏ ra ưa thích các dữ kiện hiện thực hơn là sự hư cấu. L. Tolstoi giai đoạn cuối hay F. M. Dostoevski đều đã từng hạ thấp, thậm chí muốn từ bỏ sự hư cấu.

Văn học thế kỷ 20 chứng kiến sự quay trở lại của hư cấu mơ một trong những thủ pháp nghệ thuật bộc lộ rõ ở những tác phẩm vận dụng ước lệ nghệ thuật ở mức độ cao, hoặc lối khát quát gây ấn tượng mạnh.

Các thể tài nhấn mạnh hư cấu[sửa | sửa mã nguồn]

Phạm vi hư cấu được nhấn mạnh trong nhiều tác phẩm theo thể tài văn học trinh thám, văn học phiêu lưu, giả tưởng, kỳ ảo. Theo đó nhà văn có thể nói về cái vốn có thực và ngược lại, cũng có thể nói về cái không thể có.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ "fiction Lưu trữ 2019-08-21 tại Wayback Machine." Lexico. Oxford University Press. 2019.
  2. ^ Sageng, Fossheim, & Larsen (eds.) (2012). The Philosophy of Computer Games. Springer Science & Business Media. pp. 186–87.
  3. ^ William Harmon and C. Hugh Holman A Handbook to Literature (7th edition). New York: Prentice Hall, 1990, p. 212
  4. ^ M. h. Abrams, A Glossary of Literary Terms (7th edition), Fort Worth: Harcourt Brace, 1999, p. 94
  5. ^ "Definition of 'fiction' Lưu trữ 2022-08-27 tại Wayback Machine." Oxford English Dictionaries (online). Oxford University Press. 2015.
  6. ^ Farner, Geir (2014). “Chapter 2: What is Literary Fiction?”. Literary Fiction: The Ways We Read Narrative Literature. Bloomsbury Publishing USA.
  7. ^ Culler, Jonathan (2000). Literary Theory: A Very Short Introduction. Oxford University Press. tr. 31. Non-fictional discourse is usually embedded in a context that tells you how to take it: an instruction manual, a newspaper report, a letter from a charity. The context of fiction, though, explicitly leaves open the question of what the fiction is really about. Reference to the world is not so much a property of literary [i.e. fictional] works as a function they are given by interpretation.
  8. ^ Iftekharuddin, Frahat (ed.). (2003). The Postmodern Short Story: Forms and Issues. Greenwood Publishing Group. p. 23.
  9. ^ Menand, Louis (2018). "Literary Hoaxes and the Ethics of Authorship". The New Yorker. Condé Nast.
  10. ^ Jones, Oliver. (2015). "Why Fan Fiction is the Future of Publishing." The Daily Beast. The Daily Beast Company LLC.
  11. ^ a b Milhorn, H. Thomas. (2006). Writing Genre Fiction: A Guide to the Craft. Universal Publishers: Boca Raton. pp. 3–4.
  12. ^ J. A. Cuddon, The Penguin Dictionary of Literary Terms (1992). London: Penguin Books, 1999, p. 600.
  13. ^ Heart of Darkness Novella by Conrad Lưu trữ 2017-04-09 tại Wayback MachineEncyclopædia Britannica,
  14. ^ 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân chủ biên, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội 1998, trang 167
  15. ^ 150 thuật ngữ văn học, đã dẫn, trang 168