I-48 (tàu ngầm Nhật)
Tàu ngầm I-48 tại Căn cứ Hải quân Otsujima, ngày 9 tháng 1, 1945.
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đế quốc Nhật Bản | |
Tên gọi | Tàu ngầm số 378 |
Xưởng đóng tàu | Xưởng vũ khí Hải quân Sasebo, Sasebo |
Đặt lườn | 19 tháng 6, 1943 |
Hạ thủy | 12 tháng 12, 1943 |
Đổi tên | I-48, 12 tháng 12, 1943 |
Hoàn thành | 5 tháng 9, 1944 |
Nhập biên chế | 5 tháng 9, 1944 |
Số phận | Bị các tàu hộ tống khu trục Hoa Kỳ đánh chìm gần Yap, 23 tháng 1, 1945 |
Xóa đăng bạ | 10 tháng 5, 1945 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | tàu ngầm Type C2 |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 109,3 m (358 ft 7 in) chung[1] |
Sườn ngang | 9,1 m (29 ft 10 in)[1] |
Mớn nước | 5,35 m (17 ft 7 in)[1] |
Công suất lắp đặt |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm | 100 m (330 ft)[1] |
Thủy thủ đoàn tối đa | 101[1] |
Vũ khí |
|
I-48 là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động như tàu ngầm mang ngư lôi tự sát Kaiten cho đến khi bị các tàu hộ tống khu trục Hoa Kỳ USS Corbesier, USS Conklin và USS Raby đánh chìm gần Yap vào ngày 23 tháng 1, 1945.
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Thiết kế
[sửa | sửa mã nguồn]Tàu ngầm Type C được thiết kế dựa trên phân lớp KD6 của lớp Kaidai dẫn trước, nhưng trang bị vũ khí ngư lôi mạnh hơn để tấn công tầm xa. Chúng có trọng lượng choán nước 2.595 tấn (2.554 tấn Anh) khi nổi và 3.618 tấn (3.561 tấn Anh) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 109,3 m (358 ft 7 in), mạn tàu rộng 9,1 m (29 ft 10 in) và mớn nước sâu 5,3 m (17 ft 5 in). Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft).[3]
Tàu ngầm Type C được trang bị hai động cơ diesel công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW). Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type C là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph), và có thể lặn xa 60 nmi (110 km; 69 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]
Các con tàu có tám ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 20 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in), cùng hai pháo phòng không 25 mm Type 96 nòng đơn hoặc nòng đôi. Các bộ gá trên boong tàu phía sau tháp chỉ huy cho phép nó vận chuyển và phóng một tàu ngầm bỏ túi Type A (Kō-hyōteki).[5]
Chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Được đặt hàng trong Chương trình Maru Kyū năm 1941, I-48 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 378 tại Xưởng vũ khí Hải quân Sasebo ở Sasebo vào ngày 19 tháng 6, 1943.[6][7] Nó được đổi tên thành I-48 vào ngày 19 tháng 6, 1943[6] trước khi được hạ thủy vào ngày 12 tháng 12, 1943.[6][7] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 5 tháng 9, 1944,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Toyama Zenshin.[6][7]
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]Bị mất
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 21 tháng 1, 1945, ở vị trí 18 nmi (33 km) về phía Tây Ulithi, I-48 đang di chuyển trên mặt nước với tốc độ 18 kn (33 km/h) hướng về phía đảo san hô khi nó bị một thủy phi cơ PBM Mariner thuộc Liên đội Tuần tra Ném bom VPB-20 đặt căn cứ tại Tinian phát hiện qua radar lúc 19 giờ 30 phút.[7] Trong khi chiếc PBM Mariner còn đang xác minh lai lịch chiếc tàu ngầm, mục tiêu lặn xuống rõ ràng là để né tránh, nên chiếc thủy phi cơ tấn công với hai quả mìn sâu và một quả ngư lôi dò âm Mark 24 "Fido".[7]I-48 sống sót qua đợt tấn công, nhưng phải hủy bỏ kế hoạch tấn công Ulithi bằng ngư lôi Kaiten.[7]
Chiếc PBM Mariner báo cáo tọa độ mục tiêu cho một đội tìm-diệt tàu ngầm, nên các tàu hộ tống khu trục USS Corbesier, USS Conklin và USS Raby thuộc Đội hộ tống 65 Hải quân Hoa Kỳ, do Conklin làm soái hạm, bắt đầu truy tìm I-48.[7] Tư lệnh Đội hộ tống 65 dự đoán chiếc tàu ngầm đã bị hư hại, nên sẽ hướng về phía Yap còn do phía Nhật Bản chiếm giữ với tốc độ trung bình 3 kn (5,6 km/h).[7] Sau khi truy tìm không có kết quả, đội hộ tống bắt đầu mở rộng phạm vi tìm kiếm đến Yap kéo dài sang ngày 22 tháng 1.[7]
Lúc 03 giờ 10 phút ngày 23 tháng 1, I-48 đang ở vị trí 15 nmi (28 km) về phía Đông Bắc Yap và di chuyển trên mặt nước về hướng Tây Nam với tốc độ 18 kn (33 km/h) khi nó bị Corbesier phát hiện qua radar ở khoảng cách 9.800 yd (9.000 m).[7] Corbesier tiếp cận mục tiêu và I-48 lặn xuống ẩn nấp.[7] Corbesier lại dò được tín hiệu I-48 bằng sonar lúc 03 giờ 36 phút,[7] nhưng loạt súng cối chống ngầm Hedgehog đầu tiên bắn ra bị trượt.[7] Trong khi Conklin và Raby đi đến hiện trường,[7] Corbesier bắn thêm năm loạt Hedgehog khác mà vẫn không trúng đích, rồi mất dấu mục tiêu.[7]
Corbesier lại dò được tín hiệu sonar trở lại lúc 09 giờ 02 phút, và bắn ra một loạt Hedgehog nhưng không có kết quả.[7]Nó dò được tín hiệu sonar trở lại lúc 09 giờ 12 phút, nhưng mất dấu mục tiêu trước khi kịp khai hỏa.[7]Tuy nhiên, Conklin bắn ra một loạt Hedgehog tấn công lúc 09 giờ 34 phút từ khoảng cách 550 yd (500 m).[7]Mười bảy giây sau đó, nó nghe thấy bốn hoặc năm vụ nổ dưới nước ở độ sâu ước lượng khoảng 175 ft (53 m), rồi tiếp nối bằng một vụ nổ lớn dưới nước lúc 09 giờ 36 phút, đến mức Conklin tạm thời bị hỏng động cơ và bánh lái.[7] Conklin nhìn thấy bọt khí trồi lên mặt nước, tiếp nối với dầu, mảnh vỡ và nhiều mảnh xác người, xác nhận I-48 bị đánh chìm tại tọa độ 09°55′0″B 138°17′30″Đ / 9,91667°B 138,29167°Đ hay 09°45′B 138°20′Đ / 9,75°B 138,333°Đ, căn cứ theo các nguồn khác nhau.[7] Toàn bộ 122 người trên tàu, bao gồm 118 thành viên thủy thủ đoàn cùng bốn hoa tiêu Kaiten, đều tử trận.[7]
Bộ tư lệnh Đệ Lục hạm đội tìm cách liên lạc với I-48 vào ngày 31 tháng 1, ra lệnh cho nó đi đến Kure, Hiroshima, nhưng chiếc tàu ngầm đã không hồi đáp.[7] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 5, 1945.[6][7]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e f g h i j k l m n “Type C2”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2024.
- ^ Campbell (1985), tr. 191.
- ^ Bagnasco (1977), tr. 192.
- ^ Chesneau (1980), tr. 201.
- ^ a b Carpenter & Polmar (1986), tr. 104.
- ^ a b c d e f “I-47 ex No-377”. ijnsubsite.info. 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2024.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2019). “IJN Submarine I-47: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2024.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
- Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
- Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
- Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
- Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
- Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
- Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
- Morison, Samuel Eliot (1949). “The Struggle for Guadalcanal”. The History of United States Naval Operations in World War II. 5. Edison, NJ: Castle Books. tr. 131–134, 233.
- Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- “I-48 ex No-378”. ijnsubsite.com. 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2024.
- Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2019). “IJN Submarine I-48: Tabular Record of Movement”. Combinedfleet.com. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2024.