Juliusz Kaden-Bandrowski

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Juliusz Kaden-Bandrowski
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
24 tháng 2, 1885
Nơi sinh
Rzeszów
Mất
Ngày mất
8 tháng 8, 1944
Nơi mất
Warszawa
An nghỉNghĩa trang Cải cách Tin Lành, Warsaw
Giới tínhnam
Quốc tịchBa Lan
Nghề nghiệpnhà báo, nhà văn, nhà văn xuôi, phóng viên dư luận
Sự nghiệp nghệ thuật
Thành viên củaCông đoàn Nhà văn Ba Lan
Giải thưởngThập tự Dũng cảm, Thập tự Độc lập, Huân chương Polonia Restituta hạng 3, Huân chương Thập tự vàng‎
Chữ ký

Juliusz Kaden-Bandrowski (sinh ngày 24 tháng 2 năm 1885 tại Rzeszów – mất ngày 8 tháng 8 năm 1944 tại Warsaw) là một nhà báotiểu thuyết gia người Ba Lan. Trong giai đoạn 1933–1939, ông là tổng thư ký của Học viện Văn học Ba Lan (Polska Akademia Literatury) tại Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan.[1]

Cuộc đời[sửa | sửa mã nguồn]

Juliusz Kazimierz Kaden-Bandrowski học piano tại các nhạc viện ở Lwów, KrakówLeipzig. Trong khi học tại Brussels, ông chuyển sở thích của mình sang triết học. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông làm phụ tá của Józef Piłsudski và là người viết biên niên sử về Lữ đoàn thứ nhất của Quân đoàn Ba Lan.

Năm 1907, Juliusz Kazimierz Kaden-Bandrowski bắt đầu làm phóng viên cho các tờ báo của Ba Lan. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông kết giao với nhóm Skamander, một nhóm được các nhà thơ thử nghiệm Ba Lan thành lập vào năm 1918. Năm 1933, ông trở thành thành viên của Học viện Văn học Ba Lan. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Juliusz Kazimierz Kaden-Bandrowski quyết định không rời Warsaw vốn đang bị Đức chiếm đóng. Ông đã chuyển đến đây trong Giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh. Vì ông tham gia giảng dạy bí mật nên đã bị bắt và bị thẩm vấn bởi Gestapo. Ông mất ngày 8 tháng 8 năm 1944, một tuần sau cuộc Khởi nghĩa Warsaw.

Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]

Juliusz Kazimierz Kaden-Bandrowski là con trai của Juliusz Marian Bandrowski và Helena, nhũ danh Kaden. Anh trai của Juliusz là Jerzy Bandrowski (1883–1940), một nhà báo, tiểu thuyết gia và dịch giả từ tiếng Anh sang tiếng Ba Lan.

Ông là thành viên của Giáo hội Cải cách Ba Lan. Cùng vợ ông là Romana, nhũ danh Szpak (1882–1962; bà sinh một con trai, Kazimierz Lewiński, một kỹ sư tốt nghiệp trường Bách khoa Paris, từ cuộc hôn nhân đầu tiên), Kaden-Bandrowski có hai con trai sinh đôi: Andrzej (1920–1943), một thiếu úy trong Armia Krajowa đã hi sinh trong lúc thi hành nhiệm vụ tại Warsaw vào tháng 6 năm 1943; và Paweł (1920–44), một trung úy trong Armia Krajowa đã chiến đấu trong Khởi nghĩa Warsaw và ngã xuống tại khu Czerniaków lân cận quận Mokotów của Warsaw vào ngày 15 tháng 9 năm 1944.

Juliusz Kazimierz Kaden-Bandrowski và các con trai của ông được an táng tại Nghĩa trang Cải cách Tin lànhWarsaw.

Danh mục[sửa | sửa mã nguồn]

Mộ của Juliusz Kaden-Bandrowski, vợ ông Romana, và hai con trai tại Nghĩa trang Cải cách Tin Lành, Warsaw
  • 1911: Niezguła (The Lubber)
  • 1913: Proch (Dust)
  • 1915: Piłsudczycy (The Piłsudskiite); Iskry (Sparks)
  • 1916: Mogiły (Tombs)
  • 1919: Łuk (The Bow)
  • 1922: Generał Barcz (General Barcz)
  • 1924: Przymierze serc (Alliance of Hearts)
  • 1925: Wakacje moich dzieci (My Children's Vacation)
  • 1928: Czarne skrzydła (Black Wings)
  • 1932: Aciaki: z I-szej A (A First Grade Pupils)
  • 1933: Mateusz Bigda
  • ?: W cieniu zapomnianej olszyny (In the Shadow of a Forgotten Alden Forest)

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Polska Akademia Literatury”. Encyklopedia Onet.pl, Grupa Onet.pl SA. 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2011.
  • Polski słownik biograficzny (Polish Biographical Dictionary)
  • J. i E. Szulcowie (J. and E. Szulc): Cmentarz Ewangelicko-Reformowany w Warszawie (The Lutheran Cemetery in Warsaw), Warsaw 1989, pp. 20–21.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Mortkowicz-Olczakowa, Hanna (1961). Bunt wspomnień. Państwowy Instytut Wydawniczy.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]