Koshikibu no Naishi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Koshikibu no Naishi
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
999
Nơi sinh
tỉnh Inaba
Mất
Ngày mất
tháng 11, 1025
Nguyên nhân mất
rối loạn hậu sản
Giới tínhnữ
Gia quyến
Thân phụ
Tachibana no Michisada
Thân mẫu
Izumi Shikibu
Phối ngẫu
Fujiwara no Kinnari, Fujiwara no Norimichi, Fujiwara no Norinaga
Người tình
Fujiwara no Yorimune, Fujiwara no Sadayori
Hậu duệ
Kōen Hōshi Haha
Nghề nghiệpnhà thơ waka, nhà thơ, nhà văn
Quốc tịchNhật Bản

Koshikibu no Naishi (Nhật: 小式部 内侍 (Tiểu Thức Bộ Nội Thị)? ? – 1025) là nhà thơ waka Nhật Bản sống vào thời đầu thế kỉ thứ 11[1][2][3] Một trong những bài thơ của bà nằm trong tập thơ nổi tiếng Ogura Hyakunin Isshu.[1][2][4][5]

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Bà là con gái của nữ sĩ tài danh Izumi Shikibu (tác giả bài 56 trong tập Ogura Hyakunin Isshu) và Tachibana no Michisada ( (Quất, Đạo Trinh)?),[1][2][3] quan trấn thủ tỉnh Mutsu.[1]

Vào khoảng năm 1009,[2] bà cùng với mẹ mình[2][3][4] phục vụ cho Hoàng hậu Shōshi và Thiên Hoàng Ichijō.[1][2][2][3][4] Người ta kể là bà thừa hưởng vẻ đẹp và tài thơ của mẹ. Nghe con chết, mẹ bà có viết bài Koshikibu Naishi Banka ( thơ ai điếu Nội Thị Koshikibu?) cực kỳ thống thiết.[1][2][3]

Thơ bà Koshibu no Naishi[sửa | sửa mã nguồn]

Bốn bài thơ của bà nằm trong tập thơ Nijūichidaishū (二十一代集 (Nhị Thập Nhất Đại Tập)?) như trong tập Goshūi Wakashū ( Hậu Thập Di Tập?) và tập Kin'yō Wakashū ( Kim Diệp Tập?).[1][3]

Bài thơ sau đây được đánh số 60 trong tập thơ Ogura Hyakunin Isshu do Fujiwara no Teika biên tập:

Nguyên văn[1] Phiên âm[6] Dịch thơ[7] Diễn ý

大江山

いく野の道の

遠ければ

まだふみも見ず

天の橋立

Ōe-yama

ikuno no michi no

tookereba

mada fumi mo mizu

ama no hashidate

Phương ấy đường xa xôi,

Băng đồng, vượt núi đồi.

Cầu Trời con chửa tới,

Thư mẹ bặt tăm hơi.

(ngũ ngôn)
Băng đồng, còn vượt Ōe,

Cầu Trời chưa tới, thư về cũng không!

(lục bát)
Hết vượt núi Ōe

Phải băng qua cánh đồng Ikuno

Đường về xứ Tango nơi mẹ ở xa vời vợi.

Mình chưa đến (thắng cảnh Ama-no-hashidate) vùng đó,

Mà mẹ cũng chẳng có thư về.

Xuất xứ[sửa | sửa mã nguồn]

Kin'yō Wakashū (金葉和歌集 (Kim Diệp Tập)?), Tạp thi, phần thượng, bài 550.[7]

Hoàn cảnh ra đời[sửa | sửa mã nguồn]

Lời giải thích trong Kin'yō Wakashū cho biết khi Izumi Shikibu, mẹ bà, theo người chồng sau là Fujiwara no Yasumasa (Đằng Nguyên, Bảo Xương) đi phó nhậm ở vùng Tango, bà Koshikibu được mời dự một hội bình thơ và đã sáng tác bài này. Lúc ấy, người trong triều là quan Trung Nạp Ngôn Fujiwara no Sadayori (sau thành tình nhân của Koshikibu, ông là tác giả bài 64 trong tập Ogura Hyakunin Isshu) đùa rằng sở dĩ bà làm thơ hay là được người mẹ ở Tango gợi ý cho. Bà lúc đó mới 15 tuổi, đã ứng khẩu trả đũa: “Cầu Trời chưa đến, thư về cũng không!”, để khéo léo phủ nhận lời buộc tội ỡm ờ đó, nhân dịp chứng tỏ tài thơ hơn người của mình. Tuy nhiên, chuyện này chỉ có giá trị thi thoại.[7]

Đề tài[sửa | sửa mã nguồn]

Nỗi lòng nhớ mẹ được trình bày hoa mỹ bằng cách sử dụng tu từ pháp một cách sắc sảo, tài tình.

Núi Ōe (Đại Giang) và cánh đồng Ikuno (Sinh Dã) cũng như giải đất bắc qua vịnh biển Ama-no-hashidate (Thiên Kiều Lập) đều là những phong cảnh đẹp và dược nhắc đến như những gối thơ (uta-makura), Ở đây cả ba lại xuất hiện một lượt. Riêng Ama-no-hashidate ở Miyazu giống như “cây cầu bắc ngang trời” nếu chổng ngược người mà nhìn, cùng với vịnh Matsushima ở Sendai và đảo Miyajima ở Hiroshima được truyền tụng là Nhật Bản Tam Cảnh.

Chữ iku trong Ikuno (生野?) không những là tên cánh đồng với cái nghĩa là “nhiều” Ōku no no (多くの 野?) mà còn có thể hiểu với nghĩa iku (行く?) là “đi”, còn cụm từ fumi mo mizu có nghĩa kép (kỹ thuật kake-kotoba) là fumi (?) trong “không có thư” và fumi (踏み?) trong “chưa đặt chân lên” vùng Ama no hashidate trong xứ Tango. Nó cũng muốn nhấn mạnh là mình không liên lạc được gì với mẹ cả.

Trong thơ Nhật, hashi ( dịch: cầu?) là một chữ liên hệ của fumi (踏み dịch: đặt chân?). Ngoài ra ta còn thấy bài thơ này sử dụng kỹ thuật cắt câu ở cuối câu bốn và dùng phép đảo nghịch.[7]

Nghiệp văn chương về sau[sửa | sửa mã nguồn]

Có vô số giai thoại về bà có liên quan mật thiết với những luận thuyết về tập thơ karonso (歌論書?) và tập setsuwa [1]

Truyện kể otogizōshi, Koshikibu, cũng có đề cập tới.[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j Britannica Kokusai Dai-hyakkajiten tiêu đề "Koshikibu no Naishi" (năm 2007).
  2. ^ a b c d e f g h Mypaedia tiêu đề "Koshikibu no Naishi" (năm 2007).
  3. ^ a b c d e f Digital Daijisen tiêu đề "Koshikibu no Naishi".
  4. ^ a b c McMillan 2010: 142 (ý 60).
  5. ^ Suzuki et al. 2009: XX.
  6. ^ McMillan 2010: 167.
  7. ^ a b c d Nguyễn Nam Trân. “Thơ bà Koshibu no Naishi”. Chim Việt Cành Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2016. no-break space character trong |tựa đề= tại ký tự số 7 (trợ giúp)

Đường dẫn ngoài[sửa | sửa mã nguồn]