Lý Kỳ (nhà thơ)
Lý Kỳ | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 690 |
Nơi sinh | Triệu |
Mất | 751 |
Giới tính | nam |
Học vấn | Tiến sĩ Nho học |
Chức quan | huyện úy |
Gia tộc | họ Lý quận Triệu |
Nghề nghiệp | nhà thơ, quan viên |
Quốc tịch | nhà Đường |
Lý Kỳ (chữ Hán: 李頎, 690?-751?)[1], là quan lại và là nhà thơ Trung Quốc thời Thịnh Đường.
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Lý Kỳ là người quận Triệu (nay thuộc huyện Triệu, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc), về sau sống tại Dĩnh Dương (nay thuộc Đăng Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc) [2].
Năm 735 đời Đường Huyền Tông (ở ngôi: 712-756), ông thi đỗ Tiến sĩ, từng giữ chức Tân Hương úy, nhưng mãi về sau vẫn không được thăng chức.
Về già, ông từ quan trở về vườn cũ ở Đông Xuyên ẩn cư.
Lý Kỳ mất khoảng năm 751, thọ khoảng 61 tuổi.
Sinh thời, Lý Kỳ thường giao du với các thi nhân như Vương Xương Linh, Vương Duy, Cao Thích và các nhà sư nổi tiếng. Ngoài vai trò là một nhà thơ [3], ông còn là một "hiệp khách thích đạo thuật, học luyện đan, và hay bàn đạo lý nhà Phật (điểm này hơi giống Vương Duy)". Và dưới con mắt ông, "các nhân vật anh hùng thường là hiệp khách; và kẻ sĩ là người không bị gò bó, có phong cách khải khái, hào phóng (điểm này hơi giống Lý Bạch)"[1].
Sự nghiệp văn chương
[sửa | sửa mã nguồn]Do giao du với các nhà sư, nên Lý Kỳ hay bàn đạo lý nhà Phật trong thơ. Ông cũng có làm thơ về biên tái[4], tuy ít, nhưng rất được lưu truyền. Đó là vì thơ ông lưu loát, phóng túng, khẳng khái, thê lương, và phát huy được đặc điểm của thể ca hành [5]. Đáng chú ý có bài "Cổ ý" (Ý xưa), "Cổ tòng quân hành" (Bài hành về việc tòng quân ngày xưa)...Lý Kỳ còn giỏi dùng cổ thi năm chữ và bảy chữ để gửi gắm tình cảm và xây dựng hình tượng nhân vật. Như các bài "Tặng Trương Húc", "Biệt Lương Hoàng", "Tống Trần Chương Phủ", "Tống Lưu Thập"... Trước khi tiểu thuyết Trung Quốc phát triển, những bài thơ phác họa nhân vật như thế, quả là rất đặc sắc và có ý nghĩa [6].
Giới thiệu thơ
[sửa | sửa mã nguồn]Giới thiệu hai trong số bài thơ tiêu biểu của Lý Kỳ.
|
|
Sách tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc biên soạn, Lịch sử văn học Trung Quốc (Tập II), Bản dịch từ tiếng Trung Quốc do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam ấn hành năm 1993.
- Dịch Quân Tả, (GS. Huỳnh Đức Đức dịch từ tiếng Trung Quốc), Văn học sử Trung Quốc (Quyển I). Nhà xuất bản Trẻ, 1992.
- Nhiều người dịch (Nam Trân giới thiệu), Thơ Đường (Tập I). Nhà xuất bản Văn học, 1987.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Theo Lịch sử văn học Trung Quốc (Tập II), tr. 84.
- ^ Chép theo Wikipedia tiếng Trung và trang web Thi viện. Thơ Đường (Tập I, tr. 326) chép Lý Kỳ là người Đông Xuyên, sau đến ở Hà Nam, Trung Quốc. Lịch sử văn học Trung Quốc (Tập II, tr. 84) chép ông là người Dĩnh Dương, thuộc Hà Nam, Trung Quốc.
- ^ Các sách dùng tham khảo không cho biết số lượng thơ còn lại của Lý Kỳ. Ở trang web Thi Viện có giới thiệu 19 bài thơ của ông.
- ^ Gọi là phái biên tái, vì thi nhân trong phái thường tả toàn những cảnh bi hùng nơi biên ải. Phong trào này được khởi xướng từ thời Nam-Bắc triều và Sơ Đường; song tới thời Thịnh Đường, sau khi An Lộc Sơn nổi dậy, các tiểu quốc phương Bắc thay phiên nhau quấy nhiễu biên cương, nó mới phát triển mạnh mẽ. Các thi nhân có tâm huyết bỗng thấy sự "ngâm hoa vịnh nguyệt" không hợp thời nữa, và họ chủ trương dùng ngòi bút hào hùng để báo quốc là một, quét sạch phong khí ủy mị là hai. Thơ của họ đều là những tráng ca, lời lẽ khảng khái mà tình cảm nồng nàn. Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, trong phái biên tái có nhiều người, nhưng đáng kể có: Sầm Than, Cao Thích và Vương Xương Linh (Đại cương văn học Trung Quốc, tr. 427-428).
- ^ Ca hành hay hành là một thể loại thơ ca cổ của Trung Quốc. Âm tiết, cách luật tương đối tự do, câu thơ ngắn dài xen lẫn, giàu biến hóa (Lịch sử văn học Trung Quốc, tr. 72). Sách Thơ Đường (tập I, tr. 69) lại định nghĩa "hành" là "tên một điệu ca khúc thời xưa". Sách Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1982, tr. 60) lại định nghĩa "hành" là "một thể thơ nhạc phủ trong cổ phong biến ra".
- ^ Lược theo Lịch sử văn học Trung Quốc (Tập II), tr. 84-88.