Bước tới nội dung

M-42

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Pháo chống tăng 45 ly kiểu 1942 (М-42)
M-42 tại Bảo tàng Núi Sapun, Sevastopol.
LoạiPháo chống tăng
Nơi chế tạo Liên Xô
Lược sử hoạt động
Phục vụ
  •  Liên Xô
  •  Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
  •  Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
  •  Việt Nam
  • Sử dụng bởi
  •  Liên Xô
  • Hiệp ước Warsaw
  •  Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
  •  Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
  •  Việt Nam[1]
    Romania
  • TrậnChiến tranh thế giới thứ hai
    Chiến tranh Triều Tiên[1]
    Lược sử chế tạo
    Người thiết kếNhà máy 172
    Nhà sản xuấtArtillery Plant #172, at Perm
    Giai đoạn sản xuất1942-1945
    Số lượng chế tạo10.843
    Thông số
    Khối lượngchiến đấu: 625 kg (1,378 lbs)
    di chuyển: 1,250 kg (2,756 lbs)
    Độ dài nòng2.985 m (9.793 ft 4 in) 66.3 calibers
    overall: 3.087 m (10.127 ft 11 in) 68.6 calibers[1]
    Chiều rộng1,6 m (5 ft 3 in)[chuyển đổi: số không hợp lệ][1]
    Chiều cao1,2 m (3 ft 11 in)[chuyển đổi: số không hợp lệ][1]
    Kíp chiến đấu6[1]

    Đạn pháoFixed QF 45x310 mmR[1]
    Cỡ đạn45 mm/ 68
    Khóa nòngSemi-automatic vertical sliding wedge[1]
    Độ giậtHydro-spring[1]
    Bệ pháoSplit trail
    Góc nâng-8° to 25°
    Xoay ngang60°
    Tốc độ bắn15-20 phát/phút
    Sơ tốc đầu nòng870 m/s
    Tầm bắn xa nhất4,55 km

    M-42 hay Pháo chống tăng 45 ly kiểu 1942 (tiếng Nga: 45-мм противотанковая пушка образца 1942 года (М-42)) là một loại pháo chống tăng của Liên Xô dùng nhiều trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

    Loại pháo này do Nhà máy 172 phát triển trên cơ sở nâng cấp khẩu pháo chống tăng 45 ly kiểu 1937 (53-K). So với 53-K, khẩu M-42 có nòng dài hơn, có khiên chắn dày hơn, bắn loại đạn pháo mạnh hơn. Nhược điểm so với loại cũ là vì muốn hạ thấp để giảm bộc lộ trước hỏa lực địch, nên các khẩu đội viên phải quỳ khi nạp đạn và điều khiển. Quy trình sản xuất M-42 cũng có vài thay đổi nhỏ so với sản xuất 53-K để tăng tốc sản xuất.

    M-42 được đưa vào sử dụng từ năm 1942, nhưng khi quân Đức tung vào mặt trận các loại xe tăng có giáp dày hơn như Tiger I, Panther và Panzer IV Ausf H nó không còn đủ mạnh để chống lại và dần dần bị thay thế bằng loại pháo chống tăng 57 ly ZiS-2. Tuy nhiên, nó vẫn tiếp tục được sản xuất và trang bị cho Hồng quân để chống lại các phương tiện hạng nhẹ của quân Đức và vẫn đủ sức làm hỏng giáp sườn của xe tăng Panther và Panzer IV Ausf H. Đạn mảnh vẫn có tính sát thương cao đối với bộ binh.

    Sau khi chiến tranh kết thúc, loại pháo này không được chế tạo nữa.

    Tham khảo

    [sửa | sửa mã nguồn]
    1. ^ a b c d e f g h i Foss, Christopher (1977). Jane's pocket book of towed artillery. New York: Collier. tr. 13. ISBN 0020806000. OCLC 911907988.