Phó vương Miền Tây

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Western Satraps
(Ariaca)
35–405
Lãnh thổ ước đoán của Tây Kshatrapas (35–405).
Lãnh thổ ước đoán của Tây Kshatrapas (35–405).
Vị thếCó thể là chư hầu của Đế quốc Quý Sương
Thủ đôOzone
Barygaza
Ngôn ngữ thông dụngPali (Ngôn ngữ Kharoshthi)
Sanskrit, Prakrit (chữ viết Brahmi)
có thể Hy Lạp (Bảng chữ cái Hy Lạp)
Tôn giáo chính
Đạo Hindu
Hóa Giáo
Đạo Phật
Chính trị
Chính phủQuân chủ
Phó vương, vua 
• khoảng năm 35
Abhiraka
• 388–395
Rudrasimha III
Lịch sử
Thời kỳCổ Đại
• Thành lập
35
• Giải thể
405
Tiền thân
Kế tục
Ấn-Scythia
Đế chế Gupta
Hiện nay là một phần của India

Phó vương Miền Tây, Tây Kshatrapas, hoặc Kshaharatas (35-405) là tên gọi các vị vua Saka cai trị của một phần phía tây và miền trung của Ấn Độ (SaurashtraMalwa: Gujarat ngày nay, Maharashtra, Rajasthan và tiểu bang Madhya Pradesh).

Họ cai trị cùng thời với người Quý Sương, những người cai trị phần phía bắc của tiểu lục địa Ấn Độ và có thể là chúa tể của họ, và Satavahana (Andhra) cai trị ở miền Trung Ấn Độ. Họ được gọi là "miền Tây" trái ngược với các phó vương Ấn-Scythia "miền Bắc" cai trị vùng đất Mathura, như Rajuvula, và những người kế nhiệm ông dưới sự thống trị của người Quý Sương, "Đại phó vương" Kharapallana và "phó vương" Vanaspara.[1] Mặc dù họ tự gọi mình là "phó vương" trên đồng tiền của họ, dẫn đến tên gọi "phó vương Tây" ngày nay, trong tác phẩm "Geographia" vào thế kỉ thứ hai của mình, Ptolemy vẫn gọi họ là người "Ấn-Scythia".[2] Quyền lực của những vị vua Saka bắt đầu suy yếu từ thế kỷ thứ 2 sau khi các vị vua Saka bị vị hoàng đế miền nam Ấn Độ Gautamiputra Satakarni của triều đại Satavahana đánh bại.[3] Sau này, vương quốc Saka đã bị hoàng đế Chandragupta II của đế chế Gupta hủy diệt hoàn toàn vào thế kỷ thứ 4.[4]

Tổng cộng đã có 27 vị phó vương miền Tây cai trị độc lập trong khoảng thời gian 350 năm. Thuật ngữ Kshatrapa là dạng viết tắt của từ phó vương, bản thân nó có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư và có nghĩa là phó vương hay thống đốc của tỉnh.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Những cuộc chinh phạt đầu tiên: Triều đại Kshaharata (thế kỉ 1 TCN)[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền xu của Bhumaka (Khoảng thế kỉ 1 CN).
Obv:Arrow, pellet, and thunderbolt. Kharoshthi inscription Chaharasada Chatrapasa Bhumakasa: "Ksaharata Satrap Bhumaka".
Rev: Capital of a pillar with seated lion with upraised paw, and wheel (dharmachakra). Brahmi inscription: Kshaharatasa Kshatrapasa Bhumakasa.

Những phó vương miền Tây được cho là đã khởi đầu với nhà Kshaharata tồn tại khá ngắn ngủi (còn gọi là Chaharada, Khaharata hoặc Khakharata tùy thuộc vào nguồn).[5] Tên gọi Kshaharata còn được biết đến từ những dòng chữ khắc trên bảng đồng Taxila, mà trên đó có đề cập đến vị vua Ấn-Scythia là Liaka Kusulaka. Trên bia Nasik được khắc vào năm thứ 19 của Sri Pulamavi cũng đề cập đến Khakharatavasa, hoặc dân tộc Kshaharata.[6]

Vị Kshaharata đầu tiên được xác nhận là Abhiraka, ông được biết đến nhờ những đồng tiền ít ỏi của mình. Ông sau đó được Bhumaka kế vị, đây còn cha của Nahapana, và ông ta chỉ sử dụng danh hiệu phó vương trên đồng tiền của mình, chứ không phải là Raja hoặc Rano (vua). Bhumaka còn là cha của vua Nahapana vĩ đại, theo như một trong những đồng tiền ông ta sau này. Đồng tiền của ông mang các biểu tượng Phật giáo, chẳng hạn như pháp luân (Dharmachakra), hoặc con sư tử ngồi trên một đầu cột, một biểu trưng cho cây cột trụ của Ashoka.

Nahapana sau đó đã lên kế vị ông, và trở thành một vị vua rất hùng mạnh. Ông đã đánh chiếm một phần của đế chế Satavahana ở miền tây và miền trung Ấn Độ. Nahapana còn thống trị toàn bộ Malwa, Nam Gujarat, và Bắc Konkan, từ Broach tới Sopara và các vùng đất của NasikPoona.[7] Người con rể của ông, một người Saka tên là Ushavadata (đã kết hôn với con gái của ông là Dakshamitra), còn được biết đến từ chữ khắc ở Nasik và Karle rằng ông ta là tổng trấn của Nahapana, cai trị phần lãnh thổ phía nam của ông.[8]

Tiền xu của Nahapana. Bảo tàng Anh.

Nahapana còn được đề cập trong tác phẩm Periplus của biển Erythraean dưới tên gọi Nambanus, [9] và là vị vua của khu vực xung quanh Barigaza:

41. "Phía bên kia vịnh Baraca là đất Barygaza và bờ biển của nước Ariaca, đó là nơi khởi đầu của vương quốc Nambanus và của toàn bộ Ấn Độ. Một phần của nó nằm trong nội địa và liền kề với Scythia được gọi là Abiria, nhưng phần bờ biển lại được gọi là Syrastrene. Đó là một vùng đất màu mỡ, lúa mì có năng suất cao cùng với gạo, dầu mè và bơ, bông và vải vóc Ấn Độ được làm từ đó, có chất liệu thô. Rất nhiều gia súc cũng được chăn thả ở đó, và những người đàn ông có tầm vóc cao lớn và nước da màu đen. Các thành thị của đất nước này là Minnagara, mà từ đó rất nhiều vải bông đã được đưa tới Barygaza. "

-Periplus của Biển Erythraean, Chương 41[9]

Dưới triều đại các phó vương miền Tây, Barigaza là một trong những trung tâm thương mại chính của La Mã với Ấn Độ. Trong Periplus còn mô tả nhiều mặt hàng được trao đổi:

49 Có rất nhiều thứ được nhập khẩu vào khu chợ của thành thị này (Barigaza), loại rượu vang Ý được ưa thích, ngoài ra còn của người Laodicea và người Ả Rập; đồng, thiếc và chì; san hô và topaz; trang phục bằng vải mịn và cả các loại kém hơn; những đai lưng rộng một thước; cánh kiến trắng, loại cỏ ba lá ngọt ngào, kính trong, hùng hoàng, antimon, tiền vàng và bạc, mà vốn mang lại một khoản lãi khi trao đổi với loại tiền của các nước khác; và thuốc mỡ, nhưng không phải là quá đắt và cũng không có nhiều."

— Periplus của biển Erythraean, Chương 48.[10]
Lãnh thổ phó vương miền Tây dưới thời Nahapana, cùng với hải cảng Barigaza, vốn đóng vai trò là một trong số những tuyến thương mại quốc tế quan trọng nhất vào thế kỉ thứ 1 theo như Periplus của biển Erythraean.

Tiền xu[sửa | sửa mã nguồn]

Chư hầu của người Quý Sương[sửa | sửa mã nguồn]

Những vị vua chính[sửa | sửa mã nguồn]

Triều đại Kshaharata[sửa | sửa mã nguồn]

Triều đại Bhadramukhas hay Kardamaka[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà Chastana:

Nhà Rudrasimha II:

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Kharapallana and Vanaspara are known from an inscription discovered in Sarnath, and dated to the 3rd year of Kanishka, in which they were paying allegiance to the Kushanas. Source: "A Catalogue of the Indian Coins in the British Museum. Andhras etc." Rapson, p ciii
  2. ^ Ptolemy, "Geographia", Chap 7
  3. ^ World history from early times to A D 2000 by B.V. Rao: p.97
  4. ^ Ancient India by Ramesh Chandra Majumdar p. 234
  5. ^ Rapson, p. CVII
  6. ^ "Kharoshthi inscription, Taxila copper plate of Patika", Sten Konow, p25
  7. ^ "The Satavahanas did not hold the western Deccan for long. They were gradually pushed out of the west by the Sakas (Western Khatrapas). The Kshaharata Nahapana's coins in the Nasik area indicate that the Western Kshatrapas controlled this region by the 1st century CE. By becoming master of wide regions including Malwa, Southern Gujarat, and Northern Konkan, from Broach to Sopara and the Nasik and Poona districts, Nahapana rose from the status of a mere Kshatrapa in the year 41 (58 AD) to that of Mahakshatrapa in the year 46 (63 AD)." in "History of the Andhras"
  8. ^ "Catalogue of Indian coins of the British Museum. Andhras etc." Rapson. p. LVII
  9. ^ Source
  10. ^ Source

In foot note number 13 on Rupiamma, I would like to point out that he wasn't from the Kshahartha family or the Kardamaka family of Chashtana. Some rulers used the title Mahakshtrapa without belonging to these dynasties. There is an article in Journal of Epigraphic Society of India Vol 18 by H.S. Thosar that will tell us the history of this Rupiamma. The pillar inscriptions merely mentions his name Mahakshtrapa Rupiamma with a low relief sculpture. There is no date or any other record. Rupiamma should not be included in the Western Satrap history.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Rapson, "A Catalogue of Indian coins in the British Museum. Andhras etc."
  • John Rosenfield, "The dynastic art of the Kushans", 1976
  • Claudius Ptolemy, "The geography", Translated and edited by Edward Luther Stevenson, Dover Publications Inc., New York, ISBN 0-486-26896-9

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]