Poly(methyl methacrylate)
Poly(methyl methacrylate) | |
---|---|
![]() | |
Danh pháp IUPAC | Poly(methyl 2-methylpropenoate) |
Tên khác | Poly(methyl methacrylate) (PMMA) methyl methacrylate resin |
Nhận dạng | |
Số CAS | |
KEGG | |
Ảnh Jmol-3D | ảnh |
SMILES | đầy đủ
|
Thuộc tính | |
Công thức phân tử | (C5O2H8)n |
Khối lượng mol | thường biến đổi khác nhau |
Khối lượng riêng | 1.18 g/cm3[1] |
Điểm nóng chảy | 160 °C (433 K; 320 °F)[2] |
Điểm sôi | |
Chiết suất (nD) | 1,4905 tại 589,3 nm[3] |
Nhiệt hóa học | |
Dược lý học | |
Các nguy hiểm | |
Các hợp chất liên quan | |
Trừ khi có ghi chú khác, dữ liệu được cung cấp cho các vật liệu trong trạng thái tiêu chuẩn của chúng (ở 25 °C [77 °F], 100 kPa). |
Poly(methyl methacrylate) (PMMA), cũng có các tên gọi khác như thủy tinh hữu cơ, nhựa acrylic hoặc thủy tinh acrylic. Các tên thương mại của PMMA có thể kể đến như Plexiglas, Acrylite, Lucite và Perspex. PMMA là một nhựa nhiệt dẻo trong suốt thường được sử dụng ở dạng tấm, miếng như một vật liệu nhẹ, khó bể vỡ có thể được dùng để thay thế cho kính và thủy tinh (vì vậy, nó có tên gọi là thủy tinh hữu cơ).
Mặc dù không phải là một loại thủy tinh silica quen thuộc, nhưng về mặt kỹ thuật nó giống như một vật liệu dạng thủy tinh (ở chỗ nó là một chất không kết tinh, không có cấu trúc tinh thể) vì thế trong lịch sử, đôi khi nó được gọi là "thủy tinh" acrylic. Về phương diện hoá học, đó là các polyme (hợp chất cao phân tử) tổng hợp của methyl methacrylate. Vật liệu này được phát triển vào năm 1928 trong các phòng thí nghiệm khác nhau bởi nhiều nhà hóa học như William Chalmers, Otto Rohm và Walter Bauer và lần đầu tiên được đưa ra thị trường vào năm 1933 bởi Công ty Rohm and Haas dưới thương hiệu Plexiglas.
PMMA là một chọn lựa kinh tế hơn với giá thành thấp để thay thế polycarbonate (PC) khi không cần thiết độ dày và cứng cao. Ngoài ra, PMMA không chứa các tiểu đơn vị bisphenol-A có khả năng gây hại có trong polycarbonate. Nó thường được ưa thích vì tính chất vừa phải của nó, dễ dàng xử lý và chế biến, và chi phí thấp. PMMA chưa qua chế biến có thể dễ gãy khi chịu tải trọng lớn, đặc biệt là dưới một lực tác động, và dễ bị trầy xước hơn so với thủy tinh vô cơ thông thường, nhưng với PMMA đã qua chế biến, có thể chịu được va đập và có độ chống trầy xước cao.
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Polymethylmethacrylate (PMMA, Acrylic). Makeitfrom.com. Truy cập 2015-03-23.
- ^ Smith, William F.; Hashemi, Javad (2006). Foundations of Materials Science and Engineering (ấn bản 4). McGraw-Hill. tr. 509. ISBN 0-07-295358-6.
- ^ Refractive index and related constants – Poly(methyl methacrylate) (PMMA, Acrylic glass). Refractiveindex.info. Truy cập 2014-10-27.