Stephen Crane
Stephen Crane | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | String Module Error: String subset indices out of order tháng String Module Error: String subset indices out of order, 1871 |
Nơi sinh | Newark |
Mất | |
Ngày mất | String Module Error: String subset indices out of order tháng String Module Error: String subset indices out of order, 1900 |
Nơi mất | Badenweiler |
Nguyên nhân | lao |
An nghỉ | Nghĩa trang Thường xanh |
Giới tính | nam |
Quốc tịch | Hoa Kỳ |
Tôn giáo | chủ nghĩa vô thần |
Nghề nghiệp | nhà văn, nhà báo, nhà thơ, cầu thủ bóng chày, tiểu thuyết gia, nhà biên kịch |
Gia đình | |
Bố | Jonathan Townley Crane |
Mẹ | Mary Helen Peck Crane |
Sự nghiệp nghệ thuật | |
Bút danh | Johnston Smith |
Năm hoạt động | 1886 – 1900 |
Đào tạo | Đại học Syracuse, Claverack College, The Pennington School |
Trào lưu | văn học hiện thực |
Tác phẩm | The Red Badge of Courage |
Chữ ký | |
Stephen Crane trên IMDb | |
Stephen Crane (1 tháng 11 năm 1871 – 5 tháng 6 năm 1900) là một nhà thơ, một tiểu thuyết gia, và một người viết truyện ngắn người Mỹ. Mặc cho cuộc đời ngắn ngủi của mình, Crane đã tạo ra nhiều tác phẩm nổi tiếng đại diện cho văn học hiện thực cũng như là tiền đề cho sự phát triểu của Chủ nghĩa tự nhiên và Trường phái Ấn tượng trong văn học Mỹ.
Sinh ra trong một gia đình có chín anh chị em và có cả bố và mẹ đều là tín hữu Giám Lý, Stephen Crane bắt đầu tập viết vào năm 4 tuổi, và đến tuổi 16, ông đã viết một số lượng lớn bài báo. Mặc dù là một thành viên nhiệt tình trong hội anh em tại trường đại học, ông lại không hứng thú với việc học và cuối cùng rời Đại học Syracuse để trở thành một phóng viên và nhà văn vào năm 1891. Tiểu thuyết đầu tay của Stephen Crane mang tên Maggie: A Girl of the Streets (Maggie: Cô gái của đường phố) được xuất bản vào năm 1893. Lấy bối cảnh ở Bowery, một khu phố ở thành phố New York, tác phẩm này được các nhà phê bình đánh giá là tác phẩm Chủ nghĩa tự nhiên đầu tiên của văn học Hoa Kỳ. Năm 1895, Stephen Crane giành được sự ca ngợi của quốc tế cho cuốn tiểu thuyết về chủ đề Nội chiến của ông mang tên The Red Badge of Courage (Dấu hiệu đỏ của lòng dũng cảm) mặc dù ông không có bất cứ kinh nghiệm chiến đấu nào.
Năm 1896, Stephen Crane bị dính vào một vụ bê bối được truyền thông đưa tin rộng rãi sau khi xuất hiện với tư cách là nhân chứng trong phiên tòa xét xử Dora Clark, một người quen của ông bị nghi ngờ làm mại dâm. Vào khoảng cuối năm đó, ông nhận lời đề nghị đến Cuba với vai trò là phóng viên chiến trường. Khi ông đang đợi chuyến tàu của mình tại Jacksonville, Florida, Crane đã gặp Cora Taylor, người mà ông đã bắt đầu một mối quan hệ lâu dài. Trên đường đến Cuba, tàu của Stephen Crane mang tên SS Commodore bị chìm ngoài khơi Florida. Ông và những người khách gặp nạn khác đã mắc kẹt ở ngoài khơi 30 tiếng đồng hồ trên một chiếc thuyền cứu nạn, và Crane đã miêu tả lại trải nghiệm kinh hoàng này của mình trong tác phẩm truyện ngắn của mình mang tên "The Open Boat" (Biển mở). Trong những năm cuối đời, ông viết về những sự xung đột diễn ra ở Hy Lạp năm 1897. Trong thời gian này, Cora luôn đồng hành cùng Crane, và bà đã được công nhận là nữ phóng viên chiến trường đầu tiên trong lịch sử. Sau này, cả hai cùng sống với nhau tại Anh. Đồng thời, Crane cũng có kết bạn với Joseph Conrad và H. G. Wells trong năm đó. Do khó khăn về tài chính và có sức khỏe kém, Stephen Crane qua đời do bệnh lao trong một viện điều dưỡng ở khu Rừng Đen tại Đức khi chỉ vừa 28 tuổi.
Vào khoảng thời gian khi ông qua đời, Stephen Crane được xem như một nhân vật quan trong trong văn học Mỹ. Sau hai thập kỷ khi mà ông gần như bị lãng quên, nhiều nhà phê bình khơi lại sự hứng thú về cuộc đời và sự nghiệp của Crane. Các tác phẩm của ông có nét đặc trưng bởi một sức mạnh sống động, sử dụng phương ngữ đặc biệt, và biện pháp mỉa mai. Các chủ đề phổ biến trong những tác phẩm của Stephen Crane bao gồm sự sợ hãi, khủng hoảng tinh thần và sự cô lập của xã hội. Mặc dù ông được vinh danh phần lớn do là tác giả của The Red Badge of Courage, cuốn tiểu thuyết đã trở thành một tác phẩm văn học cổ điển của Mỹ, Crane cũng có được sự nổi tiếng nhờ những bài thơ, bài báo, hay những mẫu truyện ngắn của ông như "The Open Boat", "The Blue Hotel" (Khách sạn màu xanh), "The Bride Comes to Yellow Sky" (Nàng dâu đến thị trấn Yellow Sky), và The Monster (Quái vật). Các tác phẩm của Stephen Crane đã mang đến một ấn tượng sâu đậm trong lòng những nhà văn của thế kỷ 20, tiêu biểu là Ernest Hemingway, và được cho là đã truyền cảm hứng cho nhiều nhà văn theo Chủ nghĩa hiện đại và Chủ nghĩa tưởng tượng (tiếng Anh: Imaginism).
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Stephen Crane sinh ở Newark, New Jersey. Bố là mục sư, mất khi Crane mới 10 tuổi. Năm 1888, sau khi học xong trung học, Crane vào học Lafayette College, sau đó học Đại học Syracuse. Crane viết báo, bắt đầu từ năm 15 tuổi, và thích môn bóng chày. Năm 1891 mẹ mất, Crane đến New York thuê nhà ở, làm phóng viên của báo New York Tribune và viết bài cho một số báo khác. Năm 1893 viết cuốn Maggie: A Girl of the Streets (Maggie: Cô gái của đường phố). Các nhà xuất bản từ chối in nên Crane bỏ tiền của mình ra in và lấy bút danh Johnston Smith. Sách bán không chạy nhưng được các nhà phê bình Hamlin Garland và William Dean Howells khen ngợi. Cũng trong thời gian này Crane sáng tác nhiều thơ. Tập thơ The Black Riders and Other Lines (Những kị sĩ đen và những dòng khác, 1895) sử dụng thể thơ tự do của Walt Whitman với lối thơ cô đọng. Cùng với thơ, Crane viết Dấu hiệu đỏ của lòng dũng cảm (The Red Badge of Courage) là cuốn sách nổi tiếng thế giới. Cho đến nay vẫn được coi là cuốn tiểu thuyết hay nhất viết về Nội chiến Hoa Kỳ. Cuốn sách này sau được in trong các số báo, mang lại cho tác giả tiếng tăm và tiền bạc.
Năm 1895 Crane đi về các tiểu bang miền Tây nước Mỹ và México. Năm 1896 sang Cuba. Ngày 2 tháng 2 năm 1897 con tàu mà Crane đi bị chìm trên biển, Crane may mắn thoát được vào bờ. Năm 1897, Crane làm phóng viên chiến trường trong Chiến tranh Hy Lạp – Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi chiến tranh kết thúc, Crane đi sang Anh. Những năm cuối đời, Crane bị bệnh lao nhưng vẫn phải làm việc vì mắc nợ nhiều. Năm 1900 ông phải đọc cho người khác chép cuốn tiểu thuyết cuối cùng The O'Ruddy. Ông mất ở khu nghỉ mát Badenweiler, Đức năm 1900. Thơ của Stephen Crane gần đây được dịch nhiều sang tiếng Việt.
Tác phẩm
[sửa | sửa mã nguồn]- Maggie: A Girl of the Streets (Maggie: Cô gái của đường phố)
- The Black Riders and Other Lines (Những kị sĩ đen và những dòng khác, 1895)
- The Red Badge of Courage (Dấu hiệu đỏ của lòng dũng cảm)
- The Blue Hotel (Khách sạn màu xanh, 1895) truyện ngắn
- George's Mother (Mẹ của George, 1896), tiểu thuyết
- The Third Violet (Màu tím thứ ba, 1896), tiểu thuyết
- The Open Boat and Other Tales of Adventure (Biển mở và những câu chuyện phiêu lưu khác, 1898), truyện
- War is kind (Chiến tranh là tốt, 1899), thơ
- The Monster and Other Stories (Quái vật và những câu chuyện khác, 1899), tiểu thuyết ngắn
- Wounds in the Rain (Vết thương trong mưa, 1900), truyện
- Whilomville Stories (Những câu chuyện Whilomville, 1900), truyện
- The O'Ruddy, tiểu thuyết
Một vài bài thơ
[sửa | sửa mã nguồn]
|
|
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Đánh số thứ tự theo cuốn: The Poems of Stephen Crane. A critical edition by Joseph Katz. New York, 1966.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Stephen Crane. |
Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về: |