Tôm càng xanh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tôm càng xanh
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Arthropoda
Phân ngành (subphylum)Crustacea
Lớp (class)Malacostraca
Bộ (ordo)Decapoda
Phân thứ bộ (infraordo)Caridea
Họ (familia)Palaemonidae
Chi (genus)Macrobrachium
Loài (species)M. rosenbergii
Danh pháp hai phần
Macrobrachium rosenbergii
de Man, 1879

Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii), còn được gọi là tôm sông khổng lồ hay tôm nước ngọt khổng lồ là một loài tôm thuộc họ Tôm gai quan trọng về mặt thương mại. Nó được tìm thấy ở khắp các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Ấn Độ đến Đông Nam ÁBắc Úc.[2] Tôm càng xanh cũng đã được giới thiệu đến các vùng của Châu Phi, Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, New Zealand, Châu MỹCaribe.[3] Nó là một trong những loài tôm nước ngọt lớn nhất trên thế giới và được nuôi trồng thủy sản rộng rãi ở một số quốc gia để làm thực phẩm.[2] Trong khi M. rosenbergii được coi là loài nước ngọt, giai đoạn ấu trùng của nó phụ thuộc vào vùng nước lợ.[4] Một khi cá thể tôm đã phát triển vượt qua giai đoạn sinh vật phù du và trở thành con non, nó sẽ sống hoàn toàn trong nước ngọt.[4]

Nó còn được gọi là tôm Malaysia, scampi nước ngọt (Ấn Độ), hoặc cherabin (Úc). Ở địa phương, nó được gọi là Golda ChingriBangladesh, udang galahIndonesiaMalaysia, uwang hoặc ulangPhilippines, và koong mae nam hoặc koong ghram gramThái Lan.[3]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Tôm càng xanh nướng trong ẩm thực Thái Lan; nguyên mỗi con tôm nặng khoảng 500g.

M. rosenbergii có thể phát triển đến chiều dài hơn 30 cm.[5] Chúng chủ yếu có màu nâu nhưng có thể khác nhau. Các cá thể nhỏ hơn có thể có màu xanh lục và hiển thị các sọc dọc mờ nhạt. Râu rất nổi bật và chứa 11 đến 14 răng lưng và 8 đến 11 răng bụng. Cặp chân đầu tiên dài và rất mỏng, kết thúc bằng những móng vuốt mỏng manh được sử dụng làm phần phụ ăn. Cặp chân đi bộ thứ hai lớn hơn nhiều và mạnh mẽ, đặc biệt là ở con đực. Các móng vuốt có thể di chuyển được của cặp chân đi bộ thứ hai được bao phủ bởi lớp lông dày đặc khiến nó có vẻ ngoài mượt mà như nhung. Màu sắc của móng vuốt ở con đực thay đổi tùy theo sự thống trị xã hội của chúng.[2][3]

Con cái có thể được phân biệt với con đực bởi phần bụng rộng hơn của chúng và cặp chân thứ hai nhỏ hơn. Các lỗ sinh dục được tìm thấy trên các đoạn cơ thể chứa cặp chân thứ năm và cặp chân thứ ba tương ứng ở con đực và con cái.[2][3]

Hình thái[sửa | sửa mã nguồn]

Con đực có ba kiểu hình thái khác nhau.[6] Giai đoạn đầu tiên được gọi là "đực nhỏ" (small male; SM); giai đoạn nhỏ nhất này có móng vuốt ngắn, gần như mờ. Nếu điều kiện cho phép, những con đực nhỏ sẽ phát triển và biến hình thành "vuốt cam" (orange claws; OC), có móng vuốt màu cam lớn trên cặp chân thứ hai, có thể có chiều dài gấp 0,8 đến 1,4 lần kích thước cơ thể của chúng.[6] Những con đực OC sau này có thể chuyển sang giai đoạn thứ ba và cuối cùng, "vuốt xanh" (blue claws; BC). Chúng có những móng vuốt màu xanh lam và cặp chân thứ hai của chúng có thể dài gấp đôi cơ thể.[4][6]

Các con đực của M. rosenbergii có một hệ thống phân cấp nghiêm ngặt: các con đực BC thống trị các con OC, và tiếp tục, các con OC thống trị các con SM.[6] Sự hiện diện của BC đực ức chế sự phát triển của SM và làm chậm quá trình biến hình của OC thành BC; một con OC sẽ tiếp tục phát triển cho đến khi nó lớn hơn con đực BC lớn nhất trong vùng lân cận trước khi biến đổi.[6] Cả ba giai đoạn con đực đều hoạt động tình dục và những con cái đã trải qua giai đoạn giao phối trước khi sinh sản sẽ hợp tác với bất kỳ con đực nào để sinh sản. BC đực bảo vệ con cái cho đến khi vỏ của chúng cứng lại; OC và SM không có hành vi như vậy.[6]

Vòng đời[sửa | sửa mã nguồn]

Khi giao phối, con đực đặt các ống sinh tinh ở mặt dưới của lồng ngực con cái, giữa các chân đi bộ. Sau đó, con cái sẽ đùn trứng, đi qua các ống sinh tinh. Con cái mang theo những quả trứng đã được thụ tinh cho đến khi chúng nở; thời gian có thể thay đổi tùy điều kiện, nhưng nói chung là dưới ba tuần. Con cái đẻ 10.000–50.000 trứng đến năm lần mỗi năm.[4]

Từ những quả trứng này nở ra giai đoạn ấu trùng đầu tiên của động vật giáp xác. Chúng trải qua một số giai đoạn ấu trùng trước khi biến đổi thành hậu ấu trùng, ở giai đoạn này chúng dài 7,1–9,9 mm và nhìn giống con trưởng thành.[4] Sự biến đổi này thường diễn ra khoảng 32 đến 35 ngày sau khi nở.[4] Những con hậu ấu trùng này sau đó sẽ di chuyển trở lại vùng nước ngọt.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ S. De Grave, J. Shy, D. Wowor & T. Page (2013). Macrobrachium rosenbergii. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2013.1. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2013.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  2. ^ a b c d H. Motoh & K. Kuronuma (1980). Field guide for the edible crustacea of the Philippines. Southeast Asian Fisheries Development Center (SEAFDEC). tr. 44. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2016.
  3. ^ a b c d Macrobrachium rosenbergii (giant freshwater prawn)”. CABI. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2016.
  4. ^ a b c d e f Forrest Wynne (tháng 5 năm 2000). “Grow-out culture of freshwater prawns in Kentucky”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2005.
  5. ^ T. Y. Chan (1998). “Shrimps and Prawns”. Trong Kent E. Carpenter; Volker H. Niem (biên tập). The Living Marine Resources of the Western Central Pacific. Volume 2: Cephalopods, Crustaceans, Holothurians and Sharks (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. Food and Agriculture Organization. ISBN 92-5-104051-6.[liên kết hỏng]
  6. ^ a b c d e f A. Barki; I. Karplus & M. Goren (1991). “Morphotype related dominance hierarchies in males of Macrobrachium rosenbergii (Crustacea, Palaemonidae)”. Behaviour. 117 (3/4): 145–160. doi:10.1163/156853991x00508. JSTOR 4534936.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]