Thành viên:Mintu Martin/Nháp/23

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Trong các tác phẩm khác[sửa | sửa mã nguồn]

Rukia có nhiều lần xuất hiện ngoài bộ anime và manga Bleach. Cô có mặt ở bốn bộ anime điện ảnh trong nhượng quyền: cô đấu với Dark Ones cùng các đồng đội Shinigami khác trong Bleach: Memories of Nobody, đồng thời hỗ trợ tìm kiếm Hitsugaya Tōshirō trong Bleach: The DiamondDust Rebellion.[1][2] Rukia có vai trò trung tâm ở phần phim điện ảnh thứ ba - Bleach: Fade to Black, trong phim cô bị hai tên côn đồ bắt cóc và tẩy não, rồi sau biến thành 'Dark Rukia'.[3] Ở phần phim điện ảnh thứ tư Bleach: Hell Verse, Rukia hỗ trợ Ichigo giải cứu em gái Yuzu khỏi vực sâu của Địa Ngục.[4] Rukia xuất hiện trong tất cả các bộ OVA trong loạt phim, hỗ trợ Ichigo trong Memories in the Rain và chạm trán Shinigami giả danh Baishin trong The Sealed Sword Frenzy.[5][6] Trong Rock Musical Bleach - vở nhạc kịch dựa trên loạt Bleach, người thể hiện cô là Satō Miki.[7] Trong các trò chơi video Bleach, Rukia là một nhân vật người chơi ở mọi game, kể cả loạt Heat the SoulBlade Battlers. Ở một vài game, cả dạng người lẫn dạng Shinigami đều xuất hiện dưới dạng các nhân vật riêng,[8][9] còn Dark Rukia là nhân vật người chơi ở Heat the Soul 6Heat the Soul 7.[10] Rukia xuất hiện ở bản chuyển thể người đóng của bộ manga mang tên Bleach. Cô được thể hiện bởi diễn viên Sugisaki Hana và phim lấy bối cảnh ở tiểu phần Đặc vụ Shinigami, khi cô buộc phải chuyển sức mạnh của mình sang Ichigo.[11] Bộ phim khởi chiếu tại Nhật Bản vào ngày 20 tháng 7 năm 2018.[12]

Đón nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Rukia có thứ hạng cao trong các cuộc bầu chọn trong bộ truyện của Weekly Shōnen Jump, cô xếp trong top 5 nhân vật nổi tiếng nhất ở cả bốn cuộc bầu chọn. Cô được liệt là nhân vật nổi tiếng thứ hai sau Ichigo ở hai cuộc bầu chọn đầu tiên, rồi tụt xuống thứ ba ở cuộc bầu chọn thứ ba, xếp sau Hitsugaya Tōshirō.[13][14][15] Đầu năm 2008, cô được bầu là nhân vật nổi tiếng thứ hai trong Bleach, nhận được 383 lá phiếu ít hơn quán quân là Hitsugaya Tōshirō.[16] Thanh zanpakutō, Sode no Shirayuki của cô xếp thứ hai trong cuộc bầu chọn về độ nổi tiếng của zanpakutō trong truyện.[17] Năm 2009, Rukia đứng thứ tư trong một cuộc khảo sát do nhà phân phối âm nhạc Nhật Bản Recochoku tiến hành mang tên "Nhân vật tôi muốn lấy làm cô dâu".[18] Trong một cuộc bầu chọn nhân vật (2007) từ tạp chí Nhật Bản Newtype, Rukia có mặt trong số những nhân vật nữ nổi tiếng nhất trong anime.[19] Cô còn xuất hiện hai lần trong các cuộc bầu chọn của Anime Grand Prix, đứng trong hàng ngũ các nhân vật nữ anime nổi tiếng nhất.[20][21] Khách hàng của NTT bầu chọn cô là nhân vật nữ tóc đen yêu thích nhiều thứ tám của họ trong anime.[22]

Michelle Ruff, diễn viên lồng tiếng Anh cho Rukia
Orikasa Fumiko, diễn viên lồng tiếng Nhật cho Rukia đã nhận được những lời tán dương.
Michelle Ruff (trái) lồng tiếng Anh cho Rukia, còn Orikasa Fumiko (phải) lồng tiếng Nhật cho Rukia.

Những mặt hàng thương mại dựa trên ngoại hình Rukia đã được bày bán trên thị trường, gồm móc khóa,[23] búp bê nhồi bông,[24] và action figure.[25] Orikasa Fumiko (diễn viên lồng tiếng Nhật cho Rukia) thích cách mà Rukia được phát triển trong lúc chiến đấu trước arrancar, lưu ý cô ấy là một người hùng trong phần giới thiệu bản thân. Tuy nhiên, cô tỏ ra buồn sau khi Rukia đánh bại arrancar đầu tiên (Di Roy Rinker), cô ấy bị arrancar Grimmjow đâm liên tiếp.[26] Michelle Ruff (diễn viên lồng tiếng Anh cho Rukia) thấy Rukia là một "chiến binh sinh tồn", do ban đầu quá cô đơn rồi được phát triển xuyên suốt bộ anime mà cô ấy buộc phải tin tưởng người khác. Cô cũng thích vẻ ngầu Rukia khi chiến đấu, nhưng lưu ý những thách thức khi lồng tiếng Rukia do nhiều thần thái khác nhau của cô ấy.[27] Ruff là quán quân ở hạng mục "Nữ diễn viên lồng tiếng (Anh) xuất sắc nhất" tại lễ trao giải SPJA Industry Awards 2009 nhờ màn thể hiện vai Rukia. Rukia cũng thắng ở hạng mục "Nhân vật nữ xuất sắc nhất" nhờ lần xuất hiện trong Bleach: Memories of Nobody.[28]

Nhiều ấn phẩm về manga, anime, trò chơi video và các phương tiện truyền thông khác đều dành những lời khen lẫn chê dành cho nhân vật Rukia. Dù Chris Beveridge từ Mania Entertainment nhận thấy phần giới thiệu Rukia trong Bleach là bình thường ở nhiều truyện khác, anh lại khen ngợi cách mà cô tương tác với các bạn học và Ichigo.[29] Melissa Harper của Anime News Network (ANN) khen ngợi những điểm khác biệt giữa Rukia và khuôn mẫu của các nhân vật nữ shōnen, quả quyết rằng việc Rukia mất đi sức mạnh rồi sau phụ thuộc vào Ichigo là "là nguồn chất liệu tuyệt vời cho cả tính hài và chính kịch trong phim." Tuy nhiên, những cảnh làm nữ sinh của Rukia bị loại bỏ ở bản dịch tiếng Anh đã gây nhiều tiếc nuối, song Ruff nhận được lời khen vì đã làm "xuất sắc công việc."[30] Carlos Alexandre từ website popcultureshock.com xem cô là "ít giống Ichigo hơn và có phần giống mặt kia của cùng chiếc đồng xu hơn". Những hành động và lời nói của Rukia được Alexendre nhận xét làm cho cô xứng đáng nhận được sự tôn trọng.[31] IGN xem cảnh mà Rukia buộc phải chia tay Kurosaki Ichigo và trở về Soul Society là "vừa đẹp vừa cảm động" và tôn vinh khâu phát triển nhân vật Rukia trong thời gian cô ở nhân giới.[32] Những lần xuất hiện sau này của cô ở Soul Society bị Theron Martin của ANN phê phán vì cô thiếu hành động, làm họ "bực dọc vì cô là một nhân vật mạnh mẽ biết bao ở đầu truyện".[33]

Trong bài đánh giá phim điện ảnh người đóng, Rob Hunter từ Film School Rejects phê phán cách kể chuyện trong phim, đặc biệt khi nhân vật nữ chính Rukia (do Sugisaki Hana) buộc phải bị tiết chế xuống làm nhân vật phụ để nhường chỗ cho nhân vật nam chính Ichigo (do Fukushi Sota) đóng. Ông còn khen ngợi màn diễn xuất của Sugisaki và tiếc nuối khi nữ diễn viên được giao những chất liệu kém trong phim.[34]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Bleach: Memories of Nobody (DVD). Viz Media. 2008.
  2. ^ 劇場版BLEACH The DiamondDust Rebellion もう一つの氷輪丸 (DVD). TV Tokyo. 2008.
  3. ^ “Third Bleach Film, First Major Film Have Titles, Dates”. Anime News Network. 15 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2009.
  4. ^ 劇場版BLEACH 地獄篇 (DVD). TV Tokyo. 2010.
  5. ^ Bleach: Memories in the Rain (DVD). TV Tokyo. 2006.
  6. ^ Bleach - The Sealed Sword Frenzy (DVD). TV Tokyo. 2006.
  7. ^ “Bleach Rock Musical official site”. Studio Pierrot. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2009.
  8. ^ Bleach: Heat the Soul official site” (bằng tiếng Nhật). SCEI. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2008.
  9. ^ SCEI biên tập (2007). Bleach: Heat the Soul 4 Japanese instruction manual (bằng tiếng Nhật). SCEI. tr. 42–43.
  10. ^ SCEI biên tập (2009). Bleach: Heat the Soul 6 Japanese instruction manual (bằng tiếng Nhật). SCEI.
  11. ^ Mikikazu, Komatsu (4 tháng 2 năm 2018). "Bleach" Live-Action Film Reveals Visual of Hana Sugisaki as Rukia”. Crunchyroll.com. crunchyroll.com. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2018.
  12. ^ Official, Movie "BLEACH" (5 tháng 2 năm 2018). “\\7⃣月2⃣0⃣日公開決定// 全世界でシリーズ累計1億2000万部を超える超人気コミック原作。悪霊・虚〈ホロウ〉 死神の戦いを、壮大なスケールで描くバトルアクション大作『#BLEACH』の公開日が、7月20日(金)に決定”. Twitter. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2018.
  13. ^ Kubo, Tite (2008). Bleach, Volume 24. Viz Media. tr. 186. ISBN 978-1-4215-1541-0.
  14. ^ Kubo, Tite (2005). “Radio Kon”. Bleach, Volume 8. Viz Media. ISBN 1-59116-872-4.
  15. ^ Kubo, Tite (2006). “Bleach popularity vote 2”. Bleach, Volume 13. Viz Media. ISBN 1-4215-0611-4.
  16. ^ Kubo, Tite (2008). “Chapter 307”. Bleach, Volume 35. Shueisha. ISBN 978-4-08-874575-6.
  17. ^ Kubo, Tite (2009). “Chapter 348”. Bleach, Volume 40. Shueisha. ISBN 978-4-08-874712-5.
  18. ^ “Survey: K-ON's Mio, Reborn's Hibari are #1 Bride, Groom”. Anime News Network. 14 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2009.
  19. ^ “NT Research”. Newtype. Kadokawa Shoten (5). tháng 5 năm 2007.
  20. ^ 第28回アニメグランプリ [2006年6月号](現在位置) (bằng tiếng Nhật). Animage. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2011.
  21. ^ 第27回アニメグランプリ [2005年6月号](現在位置) (bằng tiếng Nhật). Animage. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2011.
  22. ^ Dong, Bamboo (5 tháng 5 năm 2014). “Japanese Fans Rank Their Favorite Black-Haired Anime Characters”. Anime News Network. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2014.
  23. ^ “Bleach Rukia Metal Keychain”. Amazon. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2014.
  24. ^ “Amazon.com: Bleach Rukia School Uniform Plush Figure”. Amazon. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2008.
  25. ^ “Amazon.com: Bleach 5" PVC Figurines Series 1: Ichigo Kurosaki & Rukia Kuchiki Two-Pack Figure Set”. Amazon. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2008.
  26. ^ Fumiko Orikasa, Masakazu Morita (tháng 4 năm 2007). Bleach Voices Actors Interview, Bleach B-Station 103. Japan: Bleach B-Station.
  27. ^ Bleach Uncut Season 2 Box Set; Behind the scenes of Bleach (DVD). Viz Media. 19 tháng 8 năm 2008.
  28. ^ “SPJA Industry Award Winners Announced at Anime Expo”. Anime news Network. 3 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2009.
  29. ^ Beveridge, Chris (28 tháng 11 năm 2006). “Bleach Vol. #01”. Mania Entertainment. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2009.
  30. ^ Harper, Melissa (22 tháng 1 năm 2007). “Bleach DVD 1 - Review”. Anime News Network. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2008.
  31. ^ Alexandre, Carlos (30 tháng 7 năm 2007). “Anime Review: Bleach, Vol. 1”. popcultureshock.com. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.Quản lý CS1: URL hỏng (liên kết)
  32. ^ Van Horn, Jason (16 tháng 1 năm 2007). “IGN: Ichigo Dies! Review”. IGN. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2008.
  33. ^ Martin, Theron (3 tháng 9 năm 2009). “Bleach DVD - Season 3 Uncut Box Set”. Anime News Network. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  34. ^ Hunter, Rob (2 tháng 8 năm 2018). 'Bleach' Review: As Live-Action Manga Adaptations Go, This Is Definitely One (Fantasia 2018)”. Film School Rejects. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2018.

[[Thể loại:Thể loại:Nhân vật mồ côi trong anime và manga]] [[Thể loại:Thể loại:Quý tộc giả tưởng]] [[Thể loại:Thể loại:Nhân vật nữ trong anime và manga]] [[Thể loại:Thể loại:Nhân vật trong Bleach]] [[Thể loại:Thể loại:Nhân vật được nhận nuôi trong anime và manga]] [[Thể loại:Thể loại:Bài viết có văn bản tiếng Nhật]]