Thomas More

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ngài
Thomas More
Chức vụ
Nhiệm kỳTháng 10 năm 1529 – Tháng 5 năm 1532
Tiền nhiệmThomas Wolsey
Kế nhiệmThomas Audley
Nhiệm kỳ15 tháng 4 năm 1523 – 13 tháng 8 năm 1523
Tiền nhiệmThomas Nevill
Kế nhiệmThomas Audley
Nhiệm kỳ31 tháng 12 năm 1525 – 3 tháng 11 năm 1529
Tiền nhiệmRichard Wingfield
Kế nhiệmWilliam FitzWilliam
Thông tin chung
Sinh7 tháng 12 năm 1478
Thành phố Luân Đôn, Anh
Mất6 tháng 7 năm 1535 (57 tuổi)
Tower Hill, Luân Đôn, Anh
Vợ
Cha mẹNgài John More
Agnes Graunger
Con cáiMargaret, Elizabeth, Cicely, and John
Học vấnĐại học Oxford
Lincoln's Inn
Chữ ký
Sự nghiệp triết học
Tác phẩm nổi bậtUtopia (1516)
Thời kỳTriết học thời kỳ Phục Hưng
Triết học vào thế kỷ 16
VùngTriết học phương Tây, Công giáo
Trường pháiChủ nghĩa nhân văn Kitô giáo[1]
Chủ nghĩa nhân văn thời kỳ Phục hưng
Đối tượng chính
Triết học xã hội
Phê bình Kháng cách
Tư tưởng nổi bật
Utopia

Ngài Thomas More (tiếng Latinh: Thomas Morus; 7 tháng 2, 1478 - 6 tháng 7, 1535), hay còn gọi Thánh Tôma Môrô trong Công giáo,[7][8] là một luật sư, nhà triết học xã hội, chính khách và là một người phái chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng nổi tiếng trong lịch sử nước Anh. Ông là một cố vấn quan trọng cho Quốc vương Henry VIII của Anh và từng đảm nhận chức vụ Đại Chưởng ấn của nước Anh trong ba năm, từ tháng 10 năm 1529 đến tháng 5 năm 1532.[9]

Nổi tiếng là một tín đồ Công giáo, Thomas More là người chủ trương chống đối cuộc Cải cách Tin Lành, đặc biệt là những học thuyết cùng tư tưởng của Martin LutherWilliam Tyndale. Trong vấn đề này, Thomas More phản đối Henry VIII ly khai Giáo hội La Mã, từ chối thừa nhận Quốc vương trở thành người Lãnh đạo tối cao của Giáo hội Anh, và đặc biệt là gay gắt phản đối việc nhà vua hủy hôn với Catalina của Aragón để cưới Anne Boleyn. Sau khi từ chối tham gia Lời tuyên thệ tối cao (Oath of Supremacy), ông bị khép tội phản quốc và kết án tử. Trong buổi hành hình, ông tuyên bố: "Ta chết như là một đầy tớ trung thành của nhà vua. Nhưng trước tiên, ta là tôi tớ của Chúa!".

Ông được tôn kính là một vị thánh trong Giáo hội Công giáo và trong Cộng đồng Anh giáo. Giáo hoàng Piô XI đã phong Thánh cho ông vào năm 1935 với tư cách là một người tử vì đạo. Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào năm 2000 tuyên bố Thánh Thomas More là vị Thánh bảo hộ cho các chính khách và chính trị gia trong đạo.[10] Danh tiếng vượt xa khỏi phạm vi nước Anh, Thomas More được Liên Xô đề cao do quan điểm về tư hữu trong sách Utopia, một cuốn tiểu thuyết giả tưởng mà ông viết về một đảo quốc đáng mơ ước được viết vào năm 1516.

Đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]

Thomas More sinh năm 1478 tại Milk Street, Luân Đôn, trong một gia đình trí thức. Cha ông là Ngài John More,[11] một luật sư và sau này là thẩm phán,[12] và mẹ ông là Agnes Graunger. Ông là con thứ trong gia đình. Khi còn nhỏ, Thomas được cho học ở Trường thánh AnthonyHampstead, một trong những trường tốt nhất Luân Đôn thời đó.[13][14]

Thomas theo hầu John Morton, Giám mục của Canterbury và Đại Chưởng ấn của nước Anh từ năm 1490 đến 1492.[15][16] Vào thời điểm ấy, Morton chủ trương tư tưởng tân học (về sau được biết đến dưới tên chủ nghĩa nhân văn của London), ông đặt nhiều kì vọng vào Thomas More tuổi trẻ tài cao. Tin rằng More có thực tài, Morton giới thiệu ông vào Đại học Oxford (một trong hai ngôi trường thuộc khu St Mary Hall hoặc Đại học Canterbury, hiện tại đều đã không còn).[17]

Năm 1492, Thomas More nhập học trường Oxford. Được theo học Thomas LinacreWilliam Grocyn, ông thông thạo tiếng Latinhtiếng Hy Lạp. Hai năm sau, thuận theo ý nguyện của cha mình, Thomas More rời Oxford và đến tại khu nội trú Hospida Cancellarie tại London để học về New Inn, London để học luật. Đến năm 1496, Thomas More vào học Trường nội trú Lincoln, một trong Inns of Court - nơi đào tạo luật sư chính quy của nước Anh. Đến năm 1502, Thomas More được nhận lệnh ["Call to the bar"], tức chính thức bước vào sự nghiệp làm luật trong triều.[16]

Đời sống tâm linh[sửa | sửa mã nguồn]

Theo lời bạn ông, Erasmus, Thomas More từng cân nhắc bỏ nghề luật để làm tu sĩ.[18][19] Khoảng năm 1503 đến 1504, Thomas More sống gần Nhà tế bần ngoài thành London và tham gia nhiều hoạt động tôn giáo cùng các tu sĩ địa phương. Dù rất ngưỡng mộ các tu sĩ tận tụy, Thomas More cuối cùng vẫn quyết định không làm tu sĩ, ông dự tuyển vào Nghị viện năm 1504 và kết hôn một năm sau đó.[16]

Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]

Thomas More kết hôn với Jane Colt vào năm 1505. Erasmus kể rằng More đã tự mình dạy vợ âm nhạc và văn học. Jane qua đời năm 1511. Hai người sinh được 4 người con:

  • Margaret Roper (1505 – 1544), kết hôn với William Roper và sinh ra 5 người con.
  • Elizabeth Dauncey (1506 – 1564), không rõ thông tin.
  • Cecily Heron (1507 - ?), không rõ thông tin.
  • John More (1510 – 1547), kết hôn với Anne Cresacre, sinh ra Thomas More II (1531 – 1606).

Sau khi Jane mất chưa được 30 ngày, bất chấp phong tục cùng những lời khuyên can của bằng hữu, Thomas More tái hôn với Alice Middleton, một góa phụ, con gái của Ngài Richard Harpur và Elizabeth Adern. Thomas More mong bà sẽ chăm sóc cho 4 đứa con nhỏ của mình.[20] Thomas More không có con chung với Alice, ông nuôi nấng con gái riêng của vợ như con ruột. Ngoài ra, More cũng là người giám hộ cho 2 cô gái: Anne Cresacre, sau này sẽ cưới John More - con trai ông; người kia là Margaret Clement, một phụ nữ học vấn cao thời Tudor, là người thân duy nhất chứng kiến ông bị hành hình.

Trái với quan điểm đương thời, Thomas More cho các con học hành như nhau, không phân biệt gái trai.[21] Con gái lớn của ông, Margaret, là tài nữ có tiếng, đặc biệt thạo tiếng Hi Lạp và Latin.

Sự nghiệp chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

Chưởng ấn[sửa | sửa mã nguồn]

Chiến dịch chống lại Cải cách Kháng nghị[sửa | sửa mã nguồn]

Từ chức[sửa | sửa mã nguồn]

Bị buộc tội, phiên tòa xét xử và bị xử tử[sửa | sửa mã nguồn]

Di vật[sửa | sửa mã nguồn]

Utopia[sửa | sửa mã nguồn]

Sự tôn kính[sửa | sửa mã nguồn]

Trong Giáo hội Công giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Thomas More
Chân dung Thánh Thomas More, bị xử tử tại Tower Hill (Luân Đôn) vào năm 1535, dựa trên bức chân dung của Holbein.
Thánh tử đạo vì Cải cách Kháng Nghị, Học giả
Tôn kínhGiáo hội Công giáo
Khối Hiệp thông Anh giáo
Chân phước29 December 1886, Firenze, Vương quốc Ý, bởi Giáo hoàng Lêô XIII
Tuyên thánh19 tháng 5 năm 1935, Thành Vatican, bởi Giáo hoàng Piô XI
Đền chínhNhà thờ Thánh Peter ad Vincula, Luân Đôn, Anh
Lễ kính22 tháng 6 (Giáo hội Công giáo)
6 tháng 7 (Giáo hội Anh)
Biểu trưngtrong trang phục của Đại Chưởng ấn và đeo Vòng cổ Esses
Quan thầy củaChính khách và chính trị gia; luật sư; Trường Luật Ateneo Manila; Giáo phận Arlington; Giáo phận Pensacola-Tallahassee; Phong trào Thanh niên Công giáo Kerala; Đại học Malta; Đại học Thánh Thánh Tomas (Khoa Nghệ thuật và Văn học)

Giáo hoàng Lêô XIII phong chân phước Thomas More, John Fisher, và 52 thánh tử đạo Anh khác vào ngày 29 tháng 12 năm 1886. Giáo hoàng Piô XI tuyên thánh More và Fisher vào ngày 19 tháng 5 năm 1935, và lễ thánh quan thầy của More là vào ngày 9 tháng 7 năm.[22] Vào ngày 31 tháng 10 năm 2000 Giáo hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố More là "thánh bảo trợ của những Chính khách và Chính trị gia".[23]

Trong Khối Hiệp thông Anh giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Di sản[sửa | sửa mã nguồn]

Trong văn học và văn hóa đại chúng[sửa | sửa mã nguồn]

Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa bài cộng sản[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Topic 1.3: The Northern Renaissance” (PDF).
  2. ^ “Plato's Dialectical Politics and Thomas More's Utopia”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2019.
  3. ^ “AUGUSTINE'S AND MORE'S USE OF CICERO” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2019.
  4. ^ Hodgkinson, Tom. “How Utopia shaped the world”. www.bbc.com.
  5. ^ “Is Thomas More's 'Utopia'.
  6. ^ Roper 2007, tr. 2.
  7. ^ St. Thomas More, 1478–1535 at Savior.org
  8. ^ Homily at the Canonization of St. Thomas More Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine at The Center for Thomas More Studies at the University of Dallas, 2010, citing text "Recorded in The Tablet, ngày 1 tháng 6 năm 1935, pp. 694–695"
  9. ^ Linder, Douglas O. The Trial of Sir Thomas More: A Chronology at University Of Missouri-Kansas City (UMKC) School Of Law
  10. ^ “Holy Days”. Worship – The Calendar. Giáo hội Anh. 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2011.
  11. ^ Jokinen, A. (ngày 13 tháng 6 năm 2009). "The Life of Sir Thomas More." Luminarium. Truy cập: ngày 19 tháng 9 năm 2011.
  12. ^ Glenn, Garrard (1 tháng 1 năm 1941). “St. Thomas More As Judge and lawyer”. Fordham Law Review. 10 (2): 187.
  13. ^ “Sir Thomas More”. The Biography Channel website. 2014. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2014.
  14. ^ “Thomas More: Always a Londoner”. tudortimes.co.uk. 24 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2019.
  15. ^ “Sir Thomas More”. The Biography Channel website. 2014. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2014.
  16. ^ a b c Rebhorn, Wayne A biên tập (2005). “Introduction”. Utopia. Classics. New York: Barnes & Noble.
  17. ^ Ackroyd, Peter (1999). The Life of Thomas More. New York: Anchor Books..
  18. ^ Erasmus, Desiderius (1991). “Letter to Ulrich von Hutten”. Trong Adams, Robert M. (biên tập). Utopia. New York: WW Norton & Co. tr. 125.
  19. ^ “Erasmus to Ulrich von Hutten” (PDF). The Center for Thomas More Studies. Biographical Accounts: Erasmus' Letters about More. Thomasmorestudies.org. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2014.
  20. ^ Maddison, the Rev. Canon, A.R., M.A., F.S.A., editor, Lincolnshire Pedigrees, Harleian Society, London, 1903, p.5.
  21. ^ Ackroyd, Peter (1999). The Life of Thomas More. New York: Anchor Books..
  22. ^ Brown, Brendan F. (1935). “St. Thomas More, lawyer”. Fordham Law Review. 3 (3): 375–390.
  23. ^ Apostolic letter issued motu proprio proclaiming Saint Thomas More Patron of Statesmen and Politicians, 31 October 2000 Vatican.va
(Note: Brémond is frequently cited in Berglar (2009))

Sử liệu[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn tư nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]