V. Gordon Childe

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
V. Gordon Childe
Childe những năm 1930
SinhVere Gordon Childe
(1892-04-14)14 tháng 4 năm 1892
Sydney, Thuộc địa New South Wales
Mất19 tháng 10 năm 1957(1957-10-19) (65 tuổi)
Blackheath, New South Wales, Úc
Trường lớpĐại học Sydney
The Queen's College, Oxford
Nghề nghiệp
Nổi tiếng vì

Vere Gordon Childe (14 tháng 4 năm 1892 – 19 tháng 10 năm 1957) là nhà khảo cổ người Úc có chuyên môn về châu Âu tiền sử. Dành phần lớn cuộc đời gắn bó với Vương quốc Anh, từng công tác tại Đại học EdinburghViện Khảo cổ học, London, ông đã viết tổng cộng 26 cuốn sách trong suốt sự nghiệp học thuật của mình. Tuy ban đầu theo trường phái khảo cổ học văn hóa – lịch sử, ông về sau trở thành người mở đường cho ngành khảo cổ học Marxist ở phương Tây.

Đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]

1892–1910: Tuổi thơ[sửa | sửa mã nguồn]

Childe sinh ngày 14 tháng 4 năm 1892 tại Sydney, Úc.[1] Ông là người con duy nhất của Đức cha Stephen Henry Childe (1844–1923) và Harriet Eliza Childe, nhũ danh Gordon (1853–1910), một cặp vợ chồng trung lưu gốc Anh.[2] Con trai của một linh mục Anh giáo, Stephen Childe được Giáo hội Anh phong sắc vào năm 1867 sau khi nhận bằng BA của Đại học Cambridge. Sau khi trở thành giảng viên vào năm 1871, ông cưới Mary Ellen Latchford và có với bà năm người con.[3] Họ chuyển tới Úc sinh sống vào năm 1878, nơi Mary qua đời. Ngày 22 tháng 11 năm 1886, Stephen cưới Harriet Gordon, người phụ nữ Anh xuất thân giàu có chuyển tới sống ở Úc từ lúc còn bé.[4] Cha bà là Alexander Gordon QC (1815–1903).[5]

1911–1917: Đại học Sydney và Oxford[sửa | sửa mã nguồn]

Childe học lấy bằng nghiên cứu cổ điển tại Đại học Sydney vào năm 1911; tuy chỉ chú trọng nghiên cứu văn tịch cổ, ông đã bắt gặp ngành khảo cổ học cổ điển qua tác phẩm của các nhà khảo cổ Heinrich SchliemannArthur Evans.[6] Ở bậc đại học, ông trở thành một gương mặt năng động của hội tranh biện, từng táo bạo phát biểu rằng "chủ nghĩa xã hội là điều đáng ao ước." Ngày càng bị thu hút bởi chủ nghĩa xã hội, ông đã tìm đọc các tác phẩm của Karl MarxFriedrich Engels, thậm chí G. W. F. Hegel, vị triết gia có công xây dựng phép biện chứng được vận dụng trong chủ nghĩa Marx.[7] Ngoài ra, ông làm quen với người đồng môn Herbert Vere Evatt và trở thành bạn tri kỉ suốt đời.[8]

Lý thuyết khảo cổ[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà viết tiểu sử Sally Green nhận định rằng, niềm tin của Childe "chưa bao giờ mang tính giáo điều, luôn luôn có phong cách riêng" và "liên tục thay đổi suốt đời ông".[9] Hướng tiếp cận lý thuyết của ông trộn lẫn các yếu tố của chủ nghĩa Marx, thuyết tán xạ văn hóa, và thuyết chức năng.[10] Childe phê phán cách tiếp cận khảo cổ học tiến hóa thời thượng vào thế kỷ thứ 19 vì ông cho rằng những người theo trường phái này chú trọng nghiên cứu hiện vật hơn bàn tay tạo ra chúng.[11] Giống hầu hết các nhà khảo cổ Tây Âu và Hoa Kỳ lúc bấy giờ, Childe cho rằng con người về bản chất không có tính sáng tạo và thường chầy ì trước đổi thay; do vậy, ông có khuynh hướng nhìn nhận các đổi thay xã hội như một phần của quá trình tán xạ và di cư hơn là sự phát triển nội tại hoặc tiến hóa.[12]

Thời bấy giờ, phần lớn giới khảo cổ tán thành hệ thống ba thời đại lần đầu tiên được nhà sưu tập đồ cổ người Đan Mạch Christian Jürgensen Thomsen (1788-1865) phát triển và giới thiệu. Cụ thể, hệ thống này là một niên biểu tiến hóa phân định tiền sử thành ba giai đoạn: thời đại đồ đá, thời đại đồ đồngthời đại đồ sắt; song Childe nhận thấy trình độ công nghệ của một số xã hội thời bấy giờ vẫn mới chỉ chững lại ở thời đồ đá.[13] Dầu vậy, ông vẫn coi đây là mô hình hữu hiệu để phân tích sự phát triển kinh tế – xã hội khi kết hợp với khuôn khổ học thuyết Marxist.[14] Theo đó, ông cũng phân loại tiền sử thành ba giai đoạn nhưng dựa trên cơ sở công nghệ, đồng thời sử dụng tiêu chí kinh tế để tách thời đồ đá thành đá cũđá mới, bác bỏ khái niệm đá giữa vô dụng.[15] Ngoài ra, Childe không chính thức phân loại các xã hội cổ đại thành ba giai đoạn là "mông muội" (savagery), "dã man" (babarianism) và "văn minh" (civilisation), giống như mô hình của Engels.[12]

Công trình tuyển chọn[sửa | sửa mã nguồn]

Nhan đề Năm Nhà xuất bản
The Most Ancient East 1922, 1928 Kegan Paul (London)
How Labour Governs: A Study of Workers' Representation in Australia 1923 The Labour Publishing Company (London)
The Dawn of European Civilization 1925 Kegan Paul (London)
The Aryans: A Study of Indo-European Origins 1926 Kegan Paul (London)
The Most Ancient East: The Oriental Prelude to European Prehistory 1929 Kegan Paul (London)
The Danube in Prehistory 1929 NXB Đại học Oxford (Oxford)
The Bronze Age 1930 NXB Đại học Cambridge (Cambridge)
Skara Brae: A Pictish Village in Orkney 1931 Kegan Paul (London)
The Forest Cultures of Northern Europe: A Study in Evolution and Diffusion 1931 Viện Nhân học Hoàng gia Vương quốc Anh và Ireland (London)
The Continental Affinities of British Neolithic Pottery 1932 Viện Nhân học Hoàng gia Vương quốc Anh và Ireland (London)
Skara Brae Orkney. Official Guide 1933, ấn bản 2 năm 1950 His Majesty's Stationery Office (Edinburgh)
New Light on the Most Ancient East: The Oriental Prelude to European Prehistory 1935 Kegal Paul (London)
The Prehistory of Scotland 1935 Kegan Paul (London)
Man Makes Himself 1936, duyệt lại vào năm 1941, 1951 Watts (London)
Prehistoric Communities of the British Isles 1940, ấn bản 2 năm 1947 Chambers (London)
What Happened in History 1942 Penguin Books (Harmondsworth)
The Story of Tools 1944 Cobbett (London)
Progress and Archaeology 1944 Watts (London)
History 1947 Cobbett (London)
Social Worlds of Knowledge 1949 NXB Đại học Oxford (London)
Prehistoric Migrations in Europe 1950 Aschehaug (Oslo)
Magic, Craftsmanship and Science 1950 NXB Đại học Liverpool (Liverpool)
Social Evolution 1951 Schuman (New York)
Illustrated Guide to Ancient Monuments: Vol. VI Scotland 1952 Her Majesty's Stationery Office (London)
Society and Knowledge: The Growth of Human Traditions 1956 Harper (New York)
Piecing Together the Past: The Interpretation of Archeological Data 1956 Routledge and Kegan Paul (London)
A Short Introduction to Archaeology 1956 Muller (London)
The Prehistory of European Society 1958 Penguin (Harmondsworth)

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Trigger 1980, tr. 9; Green 1981, tr. 1.
  2. ^ Green 1981, tr. 1.
  3. ^ Trigger 1980, tr. 32; Green 1981, tr. 3–4.
  4. ^ Trigger 1980, tr. 32; Green 1981, tr. 4.
  5. ^ “Family Notices”. The Sydney Morning Herald (15, 187). New South Wales, Australia. 29 tháng 11 năm 1886. tr. 1. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021 – qua National Library of Australia.
  6. ^ Trigger 1980, tr. 32; Green 1981, tr. 9.
  7. ^ Green 1981, tr. 10.
  8. ^ Mulvaney 1994, tr. 56.
  9. ^ Green 1981, tr. 79.
  10. ^ McNairn 1980, tr. 166.
  11. ^ Trigger 2007, tr. 247.
  12. ^ a b Trigger 1984, tr. 3.
  13. ^ McNairn 1980, tr. 77–78.
  14. ^ McNairn 1980, tr. 78–79.
  15. ^ McNairn 1980, tr. 81–82.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]