Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hồ Trung Hậu”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tập tin HoTrungHau.jpg đã bị bỏ ra khỏi bài viết vì nó đã bị xóa ở Commons bởi Jameslwoodward vì lý do: Commons:Deletion requests/Files uploaded by Hoàng Đình Thảo - Using [[:
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 5: Dòng 5:
| nơi sinh= Bến Tre, VN
| nơi sinh= Bến Tre, VN
| nơi mất= [[Sài Gòn|Tp HCM]]
| nơi mất= [[Sài Gòn|Tp HCM]]
| hình= [[Tập|170px]]
| hình=
| thuộc= [[Tập tin:GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| thuộc= [[Tập tin:GOFVNflag.jpg|22px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]
| năm phục vụ= 1953-1975
| năm phục vụ= 1953-1975

Phiên bản lúc 23:39, ngày 29 tháng 11 năm 2015

Hồ Trung Hậu
Sinh1931
Bến Tre, VN
Mất1995
Tp HCM
Thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1953-1975
Quân hàm Chuẩn tướng
Đơn vịBinh chủng Nhảy dù
Sư đoàn 21 Bộ binh
Quân đoàn III
Chỉ huyQuân đội Quốc gia Việt Nam
Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Công việc khácBiệt phái Bộ Nội vụ

Hồ Trung Hậu (1931-1995), nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang quân hàm Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khoá đầu tiên (được hưởng quy chế sĩ quan hiện dịch) tại trường Sĩ Quan Trừ bị do Chính phủ Quốc gia Việt Nam được sự hỗ trợ về mặt điều hành và huấn luyện của Quân đội Pháp mở ra ở miền Nam. Trong thời gian tại ngũ, ông đã phục vụ ở binh chủng Nhảy dù một thời gian dài từ chức Trung đội trưởng... đến Sư đoàn phó, Sau ông được chuyển qua bộ binh và giữ chức Tư lệnh Sư đoàn.

Tiểu sử & binh nghiệp

Ông sinh vào tháng 1-1931 tại Bến Tre, miền tây Nam phần Việt Nam trong một gia đình khá giả. Năm 1943, khi học đến chương trình Trung học, gia đình gửi ông lên Sài Gòn nhập học vào trường Lasan Tabert, Sài Gòn. Ông tốt nghiệp Trung học đệ nhị cấp chương trình Pháp với văn bằng Tú tài toàn phần.

Năm 1953: Thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 51/121.320. Theo học khoá 4 Cương Quyết tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức (khai giảng ngày 1/12/1953, mãn khoá ngày 1/6/1954). Ông tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy.

  • Tốt nghiệp cùng khoá với ông, sau này lên tướng còn có:
  1. Trung tướng Ngô Quang Trưởng (Tư lệnh Quân đoàn I, Quân khu 1)
  2. Thiếu tướng Bùi Thế Lân (Tư lệnh Sư đoàn Thuỷ quân Lục chiến)
  3. Chuẩn tướng: Nguyễn Văn Điềm (Tư lệnh Sư đoàn 1 bộ binh
  4. Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng (Tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù)
  5. Chuẩn tướng truy thăng Nguyễn Trọng Bảo (Tham mưu trưởng Sư đoàn Nhảy dù))

Năm 1954: Ra trường, ông tình nguyện vào binh chủng Nhảy dù, được cử làm Trung đội trưởng trong Tiểu đoàn 6 Nhảy dù.

Quân đội Việt Nam Cộng hoà

Năm 1955: Sau cuộc trưng cầu dân ý, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đắc cử lên làm Tổng thống thay Quốc trưởng Bảo Đại, lập ra nền Đệ nhất Cộng hoà và cải danh Quân đội Quốc gia Việt Nam thành Quân đội Việt nam Cộng hoà. Cuối năm này, ông được lên chức Đại đội trưởng Đại đội 2 thuộc Tiểu đoàn 6.

Năm 1958: Ông được thăng cấp Trung úy tạm rời đơn vị Nhảy dù và biệt phái sang Bộ Nội vụ giữ chức Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện cán bộ Dinh điền. Qua năm 1959, ông lên cấp Đại úy và được cử làm sĩ quan Tuỳ viên cho Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Năm 1960: Ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm. Qua tháng 9 năm 1961, ông được bổ nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh Phước Thành thay thế Thiếu tá Nguyễn Minh Mẫn (bị Tử thương do địch quân tấn công vào Tỉnh lỵ ngày 18/9/1961).

Năm 1963: Đầu năm, ông nhận lệnh bàn giao chức vụ Tỉnh trưởng lại cho Trung tá Đỗ Văn Diễn để trở lại đơn vị Nhảy dù. Sau cuộc đảo chính Tổng thống Diệm, ông được cử giữ chức phụ tá hành quân cho Chỉ huy trưởng Chiến đoàn 1 Nhảy dù. Qua măm 1964, ông nhận chức phụ tá hành quân cho Thiếu tá Bùi Kim Kha, Tham mưu trưởng Lữ đoàn Nhảy Dù.

Tháng 5 năm 1965, Ông được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù thay thế Thiếu tá Khiếu Hữu Diêu. Tháng 9 cùng năm, ông được lệnh bàn giao chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 lại cho Đại úy Nguyễn Khoa Nam để lên giữ chức Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 1 Nhảy dù thay thế Trung tá Bùi Kim Kha. Vào cuối năm này Lữ đoàn Nhảy dù được bổ sung cấp số, chuyển đổi quy chế và cải danh thành Sư đoàn Nhảy dù, đồng thời các Chiến đoàn được cải danh thành cấp Lữ đoàn.

Ngày 19/6 năm 1966, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm. Qua tháng 11 năm 1967, nhận lệnh bàn giao chức Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 1 lại cho Thiếu tá Lê Quang Lưỡng.

Ngày 1/11 năm 1968, ông được đặc cách thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Sang tháng 2 năm 1969, ông đươc lên giữ chức vụ Tư lệnh phó Sư đoàn Nhảy dù.

Tháng 4 năm 1971, ông được vinh thăng đặc cách tại mặt trận cấp bậc Chuẩn tướng tại nhiệm. Qua tháng 5 năm 1972, ông nhận lệnh bàn giao chức vụ Tư lệnh phó Sư đoàn Nhảy dù lại cho Đại tá Lê Quang Lưỡng, sau đó ông được thuyên chuyển về Quân khu 4 và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 bộ binh thay thế Thiếu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi lên làm Tư lệnh Quân đoàn IV, Quân khu 4. Trung tuần tháng 8 cùng năm, ông được lệnh bàn giao Sư đoàn 21 lại cho Đại tá Chương Dzềnh Quay. Sau đó ông được chuyển về Bộ Tổng tham mưu.

Tháng 10 năm 1973, ông được Tổng tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu cử đi làm Chánh Thanh tra Quân đoàn III, Quân khu 3 và ông ở chức vụ này cho đến tháng 4/1975.

Sau ngày 30/4/1975, ông ra trình diện Chính quyền Cách mạng và bị đưa đi tù cải tạo cho đến ngày 11/2/1988 mới được trả tự do.

Năm 1995, ông từ trần tại Tp HCM (Sài Gòn), hưởng thọ 64 tuổi.

(6 tháng sau, phu nhân cùng các con được Hoa Kỳ bảo lãnh xuất cảnh theo diện H.O sang định cư tại miền bắc Tiểu bang California).

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa. Hương Quê. ISBN 978-0-9852-1820-1.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) [cần số trang]