Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Beryl”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Geo 9999 (thảo luận | đóng góp)
Geo 9999 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 44: Dòng 44:


[[Pegmatit]] ở [[New England]] tạo ra các tinh thể beryl lớn nhất, bao gồm một tinh thể khối ở mỏ Bumpus, [[Albany, Maine]] với kích thước 5,5 x 1,2 m và khối khoảng 18 [[tấn]]; đây là khoáng vật biểu tượng của bang New Hampshire Đến năm 1999, tinh thể tự nhiên lớn nhất được biết đến trong tất cả các loại khoáng vật là tinh thể beryl ở Malakialina, Madagascar, dài 18 mét và đường kính 3,5 mét, nặng 380.000 [[kilogram]].<ref>G. Cressey and I. F. Mercer, (1999) ''Crystals'', London, Natural History Museum, page 58</ref>
[[Pegmatit]] ở [[New England]] tạo ra các tinh thể beryl lớn nhất, bao gồm một tinh thể khối ở mỏ Bumpus, [[Albany, Maine]] với kích thước 5,5 x 1,2 m và khối khoảng 18 [[tấn]]; đây là khoáng vật biểu tượng của bang New Hampshire Đến năm 1999, tinh thể tự nhiên lớn nhất được biết đến trong tất cả các loại khoáng vật là tinh thể beryl ở Malakialina, Madagascar, dài 18 mét và đường kính 3,5 mét, nặng 380.000 [[kilogram]].<ref>G. Cressey and I. F. Mercer, (1999) ''Crystals'', London, Natural History Museum, page 58</ref>

==Biến thể==

===Aquamarine và maxixe===
[[File:Aigue-marine Pakistan 180308.jpg|thumb|left|upright=0.5|Aquamarine]]
Aquamarine (từ {{lang-la|aqua marina}}, "nước biển") là một biến thể màu turquoise của beryl. Nó có mặt ở hầu hết các địa phương phát hiện ra beryl. Các mỏ sa khoáng đá quý cuội ở [[Sri Lanka]] chứa aquamarine. Beryl màu vàng trong suốt, như loại có mặt ở Brazil, đôi khi được gọi là ''aquamarine chrysolite''.{{citation needed|date=December 2011}} Loại có màu xanh dương đậm của aquamarine được gọi là ''maxixe''. Maxixe được tìm thấy phổ biến ở Madagascar. Màu sắc của nó mất dần sang tráng khi choi dưới ánh sáng mặt trời hoặc bị xử lý nhiệt, mặc dù màu sắc trả về theo bức xạ.

Màu lam nhạt của aquamarine là do Fe<sup>2+</sup>. Các ion Fe<sup>3+</sup> tạo ra màu vàng-vàng khối, và khi có mặt cả Fe<sup>2+</sup> và Fe<sup>3+</sup> chúng cho màu xanh lam sẫm hơn như của maxixe. Sự mất màu của maxixe do ánh sáng hoặc nhiệt này có thể do sự chuyển điện tích Fe<sup>3+</sup> và Fe<sup>2+</sup>.<ref name=color>{{cite web|url=http://minerals.caltech.edu/FILES/Visible/BERYL/Index.htm| title = Color in the Beryl group| accessdate = 2009-06-06}}</ref><ref name=ibragim>{{cite journal| doi =10.1134/S0020168509020101| title =Correlations between admixtures and color centers created upon irradiation of natural beryl crystals| year =2009| author =Ibragimova, E. M.| journal =Inorganic Materials| volume =45| page =162| last2 =Mukhamedshina| first2 =N. M.| last3 =Islamov| first3 =A. Kh.| issue =2}}</ref><ref name=viana1>{{cite journal|doi=10.1007/s002690100210|title=Characterization of beryl (aquamarine variety) by Mössbauer spectroscopy|year=2002|author=Viana, R. R.|journal=Physics and Chemistry of Minerals|volume=29|page=78|last2=Da Costa|first2=G. M.|last3=De Grave|first3=E.|last4=Stern|first4=W. B.|last5=Jordt-Evangelista|first5=H.|bibcode = 2002PCM....29...78V }}</ref><ref name=blak>{{cite journal|doi=10.1007/BF00309581|title=Optical absorption and electron spin resonance in blue and green natural beryl: A reply|year=1983|author=Blak, Ana Regina|journal=Physics and Chemistry of Minerals|volume=9|page=279|last2=Isotani|first2=Sadao|last3=Watanabe|first3=Shigueo|issue=6|bibcode = 1983PCM.....9..279B }}</ref> Màu lam sẫm maxixe có thể được tạo ra màu lục, vàng bằng cách chiếu các dòng hạt năng lượng cao ([[tia gamma]], [[neutron]] hoặc thậm chí là [[tia X]]).<ref>{{cite journal| url = http://www.minsocam.org/ammin/AM61/AM61_100.pdf| author = K. Nassau| journal=[[American Mineralogist]]| volume =61|title=The deep blue Maxixe-type color center in beryl|year =1976|page =100}}</ref>
Chất lượng đá quý aquamarin lớn nhất từng được khai thác ở Marambaia, Minas Gerais, Brazil vào năm 1910. Nó nặng hơn 110&nbsp;kg, và dài 48m5 cm, đường kính 42 cm.<ref>{{cite book|author=Schumann, Walter |title=Gemstones of the World |year=2009 |publisher=Sterling Publishing Co. |page=110 |isbn=978-1-4027-6829-3 |url=http://books.google.com/books?id=V9PqVxpxeiEC}}</ref> Viên đá quý được cắt lớn nhất là [[Dom Pedro aquamarine]], hiện được lưu giữ trog [[Bảo tàng Lịch sử quốc gia Hoa Kỳ]] thuộc [[Smithsonian Institution]].<ref>{{cite news|last=Vastag|first=Brian|title=The Dom Pedro aquamarine’s long and winding path to the Smithsonian|url=http://articles.washingtonpost.com/2012-12-02/national/35584555_1_gem-aquamarine-hope-diamond|accessdate=7 December 2012|newspaper=The Washington Post|date=2 December 2012}}</ref>

===Emerald===
{{Main|Emerald}}
[[File:Béryl var. émeraude sur gangue (Muzo Mine Boyaca - Colombie) 15.jpg|thumb|left|150px|Rough emerald on matrix]]
Emerald là loại beryl lục, màu của nó là do các nguyên tố vết của [[crôm]] và đôi khi là [[vanadi]].<ref name=color/><ref name=Hurlbut>{{cite book|author=Hurlbut, Cornelius S. Jr, & Kammerling, Robert C.|year=1991|title=Gemology|page=203|publisher=John Wiley & Sons|place=New York|isbn=0-471-42224-X}}</ref>

===Beryl vàng và heliodor===
''Beryl vàng'' có thể có màu từ vàng nhạt đến vàng sáng.

===Goshenit===
[[File:Zrost beryli, Namibia3.jpg|thumb|100px|Goshenite]]
Beryl không màu được gọi là ''goshenit''.

===Morganit===
[[File:Morganite (Brésil).jpg|thumb|100px|Morganite]]
Morganit hay "beryl hồng", là loại beryl chất lượng và rất hiếm. Biến thể màu vàng/cam của morganit cũng được tìm thấy, và có màu phân dải. Nó có thể được xử lý nhiệt để loại các đốm vàng và thỉnh thoảng được xử lý bằng bức xạ để cải thiện màu sắc. Màu hồng của morganit là do các ion Mn<sup>2+</sup>.<ref name=color/>
===Beryl đỏ===
[[File:Beryl-196800.jpg|thumb|upright=0.4|Beryl đỏ]]
Beryl đỏ là một biến thể màu đỏ của beryl. Nó được mô tả năm 1904 từ mẫu được tìm thấy ở Maynard's Claim (Pismire Knolls), Thomas Range, [[Quận Juab, Utah|Juab County]], [[Utah]].<ref>[http://www.mindat.org/min-690.html MinDat – Red beryl]</ref><ref>[http://geology.utah.gov/surveynotes/gladasked/gladberyl.htm Carl Ege, Utah Geological Survey]</ref>


==Tham khảo==
==Tham khảo==

Phiên bản lúc 12:01, ngày 23 tháng 4 năm 2014

Beryl
Ba biến thể của beryl: morganit, aquamarinheliodor
Thông tin chung
Thể loạiSilicat vòng
Công thức hóa họcBe3Al2(SiO3)6
Phân loại Strunz09.CJ.05
Hệ tinh thểSáu phương
Nhóm không gianTháp đôi sáu phương kép
Kí hiệu H-M (6/m 2/m 2/m)
Nhóm không gian: P 6/mmc
Ô đơn vịa = 9.21 Å, c = 9.19 Å; Z = 2
Nhận dạng
Phân tử gam537.50
MàuLục, lam, vàng, không màu, hồng và các màu khác
Dạng thường tinh thểlăng trụ đến trụ; tỏa tia, hạt đến khối đặc sít
Song tinhhiếm
Cát khaikhông hoàn toàn theo mặt {0001}
Vết vỡvỏ sò đến bất quy tắc
Độ bềngiòn
Độ cứng Mohs7,5–8
Ánhthủy tinh đến nhựa
Màu vết vạchtrắng
Tính trong mờtrong suốt đến mờ
Tỷ trọng riêngtrung bình 2,76
Thuộc tính quangmột trục (-)
Chiết suấtnω = 1.564–1.595
nε = 1.568–1.602
Khúc xạ képδ = 0.0040–0.0070
Đa sắcyếu đến rõ
Huỳnh quangkhông (một số vật liệu lắp đầy khe nứt thể hiện tính quỳnh quang của emerald, nhưng bản thân nó không có)
Tham chiếu[1][2][3]

Beryl là một loại khoáng vật nhôm, berili silicat có công thức hóa học Be3Al2(SiO3)6. Tinh thể của nó kết tinh theo hệ sáu phương với kích thước từ rất nhỏ đến vài mét. Các tinh thể cụt tương đối hiếm gặp. Beryl tinh khiết không màu, nhưng nó thường có lẫn tạp chất, khi đó nó cho màu lục, lam, vàng, đỏ, và trắng.

Thành tạo

Beryl có nhiều màu sắc khác nhau được tìm thấy chủ yếu trong các mạch pegmatit granit, nhưng cũng có trong đá schist mica thuộc dãi Ural, và đá vôiColombia. Beryl thường cộng sinh với các thân quặng thiếctungsten. Beryl được tìm thấy ở châu ÂuNa Uy, Áo, Đức, Thụy Điển (đặc biệt là morganit), IrelandNga, cũng như ở Brazil, Colombia, Madagascar, Mozambique, Nam Phi, Hoa Kỳ, và Zambia. Các vị trí có beryl của Hoa Kỳ ở California, Colorado, Connecticut, Georgia, Idaho, Maine, New Hampshire, North Carolina, Nam DakotaUtah.

PegmatitNew England tạo ra các tinh thể beryl lớn nhất, bao gồm một tinh thể khối ở mỏ Bumpus, Albany, Maine với kích thước 5,5 x 1,2 m và khối khoảng 18 tấn; đây là khoáng vật biểu tượng của bang New Hampshire Đến năm 1999, tinh thể tự nhiên lớn nhất được biết đến trong tất cả các loại khoáng vật là tinh thể beryl ở Malakialina, Madagascar, dài 18 mét và đường kính 3,5 mét, nặng 380.000 kilogram.[4]

Biến thể

Aquamarine và maxixe

Aquamarine

Aquamarine (từ tiếng Latinh: aqua marina, "nước biển") là một biến thể màu turquoise của beryl. Nó có mặt ở hầu hết các địa phương phát hiện ra beryl. Các mỏ sa khoáng đá quý cuội ở Sri Lanka chứa aquamarine. Beryl màu vàng trong suốt, như loại có mặt ở Brazil, đôi khi được gọi là aquamarine chrysolite.[cần dẫn nguồn] Loại có màu xanh dương đậm của aquamarine được gọi là maxixe. Maxixe được tìm thấy phổ biến ở Madagascar. Màu sắc của nó mất dần sang tráng khi choi dưới ánh sáng mặt trời hoặc bị xử lý nhiệt, mặc dù màu sắc trả về theo bức xạ.

Màu lam nhạt của aquamarine là do Fe2+. Các ion Fe3+ tạo ra màu vàng-vàng khối, và khi có mặt cả Fe2+ và Fe3+ chúng cho màu xanh lam sẫm hơn như của maxixe. Sự mất màu của maxixe do ánh sáng hoặc nhiệt này có thể do sự chuyển điện tích Fe3+ và Fe2+.[5][6][7][8] Màu lam sẫm maxixe có thể được tạo ra màu lục, vàng bằng cách chiếu các dòng hạt năng lượng cao (tia gamma, neutron hoặc thậm chí là tia X).[9]

Chất lượng đá quý aquamarin lớn nhất từng được khai thác ở Marambaia, Minas Gerais, Brazil vào năm 1910. Nó nặng hơn 110 kg, và dài 48m5 cm, đường kính 42 cm.[10] Viên đá quý được cắt lớn nhất là Dom Pedro aquamarine, hiện được lưu giữ trog Bảo tàng Lịch sử quốc gia Hoa Kỳ thuộc Smithsonian Institution.[11]

Emerald

Rough emerald on matrix

Emerald là loại beryl lục, màu của nó là do các nguyên tố vết của crôm và đôi khi là vanadi.[5][12]

Beryl vàng và heliodor

Beryl vàng có thể có màu từ vàng nhạt đến vàng sáng.

Goshenit

Goshenite

Beryl không màu được gọi là goshenit.

Morganit

Morganite

Morganit hay "beryl hồng", là loại beryl chất lượng và rất hiếm. Biến thể màu vàng/cam của morganit cũng được tìm thấy, và có màu phân dải. Nó có thể được xử lý nhiệt để loại các đốm vàng và thỉnh thoảng được xử lý bằng bức xạ để cải thiện màu sắc. Màu hồng của morganit là do các ion Mn2+.[5]

Beryl đỏ

Beryl đỏ

Beryl đỏ là một biến thể màu đỏ của beryl. Nó được mô tả năm 1904 từ mẫu được tìm thấy ở Maynard's Claim (Pismire Knolls), Thomas Range, Juab County, Utah.[13][14]

Tham khảo

  1. ^ Beryl mineral information and data, Mindat
  2. ^ Beryl Webmineral
  3. ^ Handbook of Mineralogy
  4. ^ G. Cressey and I. F. Mercer, (1999) Crystals, London, Natural History Museum, page 58
  5. ^ a b c “Color in the Beryl group”. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2009.
  6. ^ Ibragimova, E. M.; Mukhamedshina, N. M.; Islamov, A. Kh. (2009). “Correlations between admixtures and color centers created upon irradiation of natural beryl crystals”. Inorganic Materials. 45 (2): 162. doi:10.1134/S0020168509020101.
  7. ^ Viana, R. R.; Da Costa, G. M.; De Grave, E.; Stern, W. B.; Jordt-Evangelista, H. (2002). “Characterization of beryl (aquamarine variety) by Mössbauer spectroscopy”. Physics and Chemistry of Minerals. 29: 78. Bibcode:2002PCM....29...78V. doi:10.1007/s002690100210.
  8. ^ Blak, Ana Regina; Isotani, Sadao; Watanabe, Shigueo (1983). “Optical absorption and electron spin resonance in blue and green natural beryl: A reply”. Physics and Chemistry of Minerals. 9 (6): 279. Bibcode:1983PCM.....9..279B. doi:10.1007/BF00309581.
  9. ^ K. Nassau (1976). “The deep blue Maxixe-type color center in beryl” (PDF). American Mineralogist. 61: 100.
  10. ^ Schumann, Walter (2009). Gemstones of the World. Sterling Publishing Co. tr. 110. ISBN 978-1-4027-6829-3.
  11. ^ Vastag, Brian (2 tháng 12 năm 2012). “The Dom Pedro aquamarine's long and winding path to the Smithsonian”. The Washington Post. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2012.
  12. ^ Hurlbut, Cornelius S. Jr, & Kammerling, Robert C. (1991). Gemology. New York: John Wiley & Sons. tr. 203. ISBN 0-471-42224-X.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  13. ^ MinDat – Red beryl
  14. ^ Carl Ege, Utah Geological Survey
  • Hurlbut, Cornelius S.; Klein, Cornelis, 1985, Manual of Mineralogy, 20th ed., John Wiley and Sons, New York ISBN 0-471-80580-7
  • Sinkankas, John, 1994, Emerald & Other Beryls, Geoscience Press, ISBN 0-8019-7114-4

Liên kết ngoài