Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tranh cãi về vắc xin”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 66: Dòng 66:


Bất chấp các khuyến cáo này, chỉ có 16% phụ nữ Mỹ mang thai khỏe mạnh được khảo sát vào năm 2005 đã được tiêm phòng cúm.<ref name="ACIP20072">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Fiore AE, Shay DK, Haber P, Iskander JK, Uyeki TM, Mootrey G, Bresee JS, Cox NJ|date=July 2007|title=Prevention and control of influenza. Recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices (ACIP), 2007|url=https://www.cdc.gov/mmwr/preview/mmwrhtml/rr5606a1.htm|journal=MMWR. Recommendations and Reports|volume=56|issue=RR-6|pages=1–54|pmid=17625497}}</ref>
Bất chấp các khuyến cáo này, chỉ có 16% phụ nữ Mỹ mang thai khỏe mạnh được khảo sát vào năm 2005 đã được tiêm phòng cúm.<ref name="ACIP20072">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Fiore AE, Shay DK, Haber P, Iskander JK, Uyeki TM, Mootrey G, Bresee JS, Cox NJ|date=July 2007|title=Prevention and control of influenza. Recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices (ACIP), 2007|url=https://www.cdc.gov/mmwr/preview/mmwrhtml/rr5606a1.htm|journal=MMWR. Recommendations and Reports|volume=56|issue=RR-6|pages=1–54|pmid=17625497}}</ref>

=== Mối quan ngại về thành phần ===
Các hợp chất [[nhôm]] được sử dụng như tá dược miễn dịch để tăng hiệu quả của nhiều loại vắc-xin.<ref name="Principi2018">{{Chú thích tạp chí|last=Principi|first=N|last2=Esposito|first2=S|date=September 2018|title=Aluminum in vaccines: Does it create a safety problem?|journal=Vaccine|volume=36|issue=39|pages=5825–31|doi=10.1016/j.vaccine.2018.08.036|pmid=30139653}}</ref> Nhôm trong vắc-xin mô phỏng hoặc gây ra một lượng nhỏ tổn thương mô, khiến cơ thể phản ứng mạnh mẽ hơn với những gì nó nhìn thấy như một sự lây nhiễm nghiêm trọng và thúc đẩy sự phát triển của phản ứng miễn dịch lâu dài.<ref name="Baylor">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Baylor NW, Egan W, Richman P|date=May 2002|title=Aluminum salts in vaccines – US perspective|journal=Vaccine|volume=20|issue=Suppl 3|pages=S18–23|doi=10.1016/S0264-410X(02)00166-4|pmid=12184360}}</ref><ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Leslie M|date=July 2013|title=Solution to vaccine mystery starts to crystallize|journal=Science|volume=341|issue=6141|pages=26–27|bibcode=2013Sci...341...26L|doi=10.1126/science.341.6141.26|pmid=23828925}}</ref> Trong một số trường hợp, các hợp chất này có liên quan đến đỏ, ngứa và sốt cấp thấp, <ref name="Baylor" /> nhưng việc sử dụng nhôm trong vắc-xin không được liên kết với các sự kiện bất lợi nghiêm trọng.<ref name="Principi2018" /><ref name="Francois">{{Chú thích tạp chí|displayauthors=3|vauthors=François G, Duclos P, Margolis H, Lavanchy D, Siegrist CA, Meheus A, Lambert PH, Emiroğlu N, Badur S, Van Damme P|date=November 2005|title=Vaccine safety controversies and the future of vaccination programs|journal=The Pediatric Infectious Disease Journal|volume=24|issue=11|pages=953–61|doi=10.1097/01.inf.0000183853.16113.a6|pmid=16282928}}</ref> Trong một số trường hợp, vắc-xin chứa nhôm có liên quan đến viêm myofascitis, tổn thương nhỏ cỡ kính hiển vi cục bộ có chứa muối nhôm kéo dài đến 8 năm. Tuy nhiên, các nghiên cứu kiểm soát trường hợp gần đây đã không tìm thấy các triệu chứng lâm sàng cụ thể ở các cá nhân có sinh thiết cho thấy MMF và không có bằng chứng cho thấy vắc-xin có chứa nhôm là một rủi ro sức khỏe nghiêm trọng hoặc biện minh cho những thay đổi đối với thực hành tiêm chủng.<ref name="Principi2018" /><ref name="Francois" /> Trẻ sơ sinh tiếp xúc với số lượng nhôm còn nhiều hơn trong sữa mẹ và sữa bột trẻ sơ sinh so với vắc-xin trong cuộc sống hàng ngày.<ref name="Smith2015">{{Chú thích tạp chí|last=Smith|first=MJ|date=November 2015|title=Promoting Vaccine Confidence|journal=Infectious Disease Clinics of North America|type=Review|volume=29|issue=4|pages=759–69|doi=10.1016/j.idc.2015.07.004|pmid=26337737}}</ref> Nhìn chung, mọi người tiếp xúc với mức độ nhôm tự nhiên tự nhiên ở gần như tất cả các loại thực phẩm và nước uống.<ref name="OxfordVaccineIngredients">{{Chú thích web|url=http://vk.ovg.ox.ac.uk/vaccine-ingredients#aluminium|tựa đề=Vaccine Ingredients|website=Vaccine Knowledge Project|nhà xuất bản=Centre for Clinical Vaccinology and Tropical Medicine, Churchill Hospital, University of Oxford}}</ref>Lượng nhôm có trong vắc-xin nhỏ, ít hơn một miligam và mức độ thấp như vậy không được cho là có hại cho sức khỏe con người.<ref name="OxfordVaccineIngredients" />

Những người do dự về vắc-xin cũng đã lên tiếng lo ngại về sự hiện diện của [[formaldehyde]] trong vắc-xin. Formaldehyde được sử dụng với nồng độ rất nhỏ để làm bất hoạt vi rút và độc tố vi khuẩn được sử dụng trong vắc xin.<ref name="FDAVaccineIngredient">{{Chú thích web|url=https://www.fda.gov/vaccines-blood-biologics/safety-availability-biologics/common-ingredients-us-licensed-vaccines|tựa đề=Common Ingredients Used in U.S. Licensed Vaccines|ngày=April 19, 2019|website=fda.gov|nhà xuất bản=U.S. Food and Drug Administration}}</ref> Một lượng rất nhỏ formaldehyde tồn dư có thể có trong vắc xin nhưng thấp hơn nhiều so với giá trị có hại cho sức khỏe con người.<ref name="CHOPformaldehyde">{{Chú thích web|url=https://www.chop.edu/centers-programs/vaccine-education-center/vaccine-ingredients/formaldehyde|tựa đề=Vaccine Ingredients-Formaldehyde|ngày=November 6, 2014|website=chop.edu/|nhà xuất bản=Children's Hospital of Philadelphia}}</ref><ref name="Vaccineingredients">{{Chú thích web|url=https://www.vaccines.gov/basics/vaccine_ingredients|tựa đề=Vaccine Ingredients|website=vaccines.gov/|nhà xuất bản=U.S. Department of Health and Human Services}}</ref> Mức độ có trong vắc xin là rất nhỏ khi so sánh với mức độ formaldehyde tự nhiên trong cơ thể người và không gây ra nguy cơ ngộ độc đáng kể.<ref name="FDAVaccineIngredient" /> Cơ thể con người liên tục sản xuất formaldehyde một cách tự nhiên và chứa lượng formaldehyde lớn nhất gấp 50–70 lần trong bất kỳ loại vắc xin nào.<ref name="FDAVaccineIngredient" /> Hơn nữa, cơ thể con người có khả năng phá vỡ formaldehyde tự nhiên cũng như một lượng nhỏ formaldehyde có trong vắc xin.<ref name="FDAVaccineIngredient" /> Không có bằng chứng liên quan đến việc tiếp xúc không thường xuyên với một lượng nhỏ formaldehyde có trong vắc-xin sẽ gây ra [[Ung thư|bệnh ung thư]].<ref name="FDAVaccineIngredient" />

=== Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh ===
[[Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh]] (SIDS) thường gặp nhất ở trẻ sơ sinh trong khoảng thời gian trong đời khi chúng được chủng ngừa nhiều lần.<ref name="PediatricsSIDS2016">{{Chú thích tạp chí|last=Moon|first=RY|last2=Task Force on Sudden Infant Death Syndrome|date=November 2016|title=SIDS and Other Sleep-Related Infant Deaths: Evidence Base for 2016 Updated Recommendations for a Safe Infant Sleeping Environment.|url=https://pediatrics.aappublications.org/content/138/5/e20162940.long|journal=Pediatrics|volume=138|issue=5|pages=e20162940|doi=10.1542/peds.2016-2940|pmid=27940805|doi-access=free}}</ref> Vì nguyên nhân của SIDS vẫn chưa được xác định đầy đủ, điều này dẫn đến những lo ngại về việc liệu vắc-xin, đặc biệt là vắc-xin giải độc tố bạch hầu-uốn ván, có thể là một yếu tố nguyên nhân hay không.<ref name="PediatricsSIDS2016" /> Một số nghiên cứu đã điều tra điều này và không tìm thấy bằng chứng nào chứng minh mối liên hệ nhân quả giữa tiêm chủng và SIDS.<ref name="PediatricsSIDS2016" /><ref name="2016TaskForceSIDSRecs">{{Chú thích tạp chí|last=Task Force on Sudden Infant Death Syndrome|date=November 2016|title=SIDS and Other Sleep-Related Infant Deaths: Updated 2016 Recommendations for a Safe Infant Sleeping Environment.|url=https://pediatrics.aappublications.org/content/138/5/e20162938.long|journal=Pediatrics|volume=138|issue=5|pages=e20162938|doi=10.1542/peds.2016-2938|pmid=27940804|access-date=13 December 2019|doi-access=free}}</ref> Vào năm 2003, [[Viện Y học Hoa Kỳ]] đã ủng hộ bác bỏ mối liên hệ nhân quả với việc [[Vắc-xin DPT|tiêm chủng DTwP]] và SIDS sau khi xem xét các bằng chứng hiện có. <ref>{{Chú thích sách|url=https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK221466/pdf/Bookshelf_NBK221466.pdf|title=Immunization Safety Review: Vaccinations and Sudden Unexpected Death in Infancy|last=Institute of Medicine (US) Immunization Safety Review Committee|last2=Stratton|first2=K|last3=Almario|first3=DA|last4=Wizemann|first4=TM|last5=McCormick|first5=MC|date=2003|publisher=National Academies Press (US)|location=Washington D.C.|pmid=25057654|access-date=13 December 2019}}</ref> Các phân tích bổ sung về [[VAERS|dữ liệu VAERS]] cũng cho thấy không có mối quan hệ giữa tiêm chủng và SIDS.<ref name="PediatricsSIDS2016" /> Các nghiên cứu đã chỉ ra mối tương quan tiêu cực giữa SIDS và tiêm chủng. Đó là trẻ em được tiêm chủng ít có nguy cơ tử vong hơn nhưng không có mối liên hệ nhân quả nào được tìm thấy. Một gợi ý là những trẻ sơ sinh ít bị SIDS thì có nhiều khả năng được đưa đi tiêm chủng hơn.<ref name="PediatricsSIDS2016" /><ref name="2016TaskForceSIDSRecs" /><ref name="Vennemann2007">{{Chú thích tạp chí|last=Vennemann|first=MM|last2=Höffgen|first2=M|last3=Bajanowski|first3=T|last4=Hense|first4=HW|last5=Mitchell|first5=EA|date=June 2007|title=Do immunisations reduce the risk for SIDS? A meta-analysis.|journal=Vaccine|volume=25|issue=26|pages=4875–79|doi=10.1016/j.vaccine.2007.02.077|pmid=17400342}}</ref>

=== Vắc xin bệnh than ===
Vào giữa những năm 1990, các báo cáo truyền thông về vắc-xin đã thảo luận về [[Hội chứng chiến tranh Vùng Vịnh|Hội chứng Chiến tranh Vùng Vịnh]], một chứng rối loạn đa triệu chứng ảnh hưởng đến các cựu binh Mỹ trở về trong [[Chiến tranh Vùng Vịnh|Chiến tranh Vùng Vịnh 1990–1991]]. Trong số các bài báo đầu tiên của tạp chí trực tuyến [[Slate (tạp chí)|''Slate'']] là một bài của [[Atul Gawande|Atul Gawande,]] trong đó các binh sĩ được chủng ngừa bắt buộc, bao gồm cả [[Vắc-xin bệnh than|tiêm chủng bệnh than]], được coi là một trong những thủ phạm có khả năng gây ra các triệu chứng liên quan đến Hội chứng Chiến tranh Vùng Vịnh. Vào cuối những năm 1990, ''Slate đã'' xuất bản một bài báo về "cuộc nổi dậy" trong quân đội chống lại việc chủng ngừa bệnh than vì "sự sẵn có của các thông tin sai lệch về vắc-xin trên Internet". ''Slate'' tiếp tục báo cáo về những lo ngại về việc [[Đậu mùa|chủng ngừa bệnh than và đậu mùa]] cho quân đội Mỹ sau [[Sự kiện 11 tháng 9|vụ tấn công ngày 11 tháng 9]] và các bài báo về chủ đề này cũng xuất hiện trên trang web của [[Salon (trang web)|''Salon.'']] <ref name="hausman">{{Chú thích sách|title=Anti/Vax: Reframing the Vaccination Controversy|last=Hausman|first=Bernice L.|publisher=Cornell University Press|year=2019|isbn=9781501735639|pages=28, 39–42}}</ref> Các [[Các cuộc tấn công bệnh than năm 2001|cuộc tấn công bệnh than năm 2001]] làm gia tăng mối lo ngại về [[khủng bố sinh học]] và [[Chính quyền liên bang Hoa Kỳ|chính phủ Liên bang Hoa Kỳ]] đã tăng cường nỗ lực lưu trữ và tạo ra nhiều vắc-xin hơn cho công dân Mỹ.<ref name="hausman" /> Năm 2002, ''[[Mother Jones (tạp chí)|Mother Jones]]'' xuất bản một bài báo rất nghi ngờ về việc chủng ngừa bệnh than và đậu mùa mà [[Quân đội Hoa Kỳ|Lực lượng Vũ trang Hoa Kỳ]] yêu cầu.<ref name="hausman" /> Trong [[Cuộc tấn công Iraq 2003|cuộc xâm lược Iraq năm 2003,]] một cuộc tranh cãi rộng rãi hơn đã nổ ra sau đó trên các phương tiện truyền thông Mỹ về việc yêu cầu quân đội Mỹ phải tiêm phòng bệnh than.<ref name="hausman" /> Từ năm 2003 đến năm 2008, đã có hàng loạt các phiên tòa nhằm phản đối việc tiêm phòng bệnh than bắt buộc của quân đội Hoa Kỳ.<ref name="hausman" />

=== Vắc xin cúm lợn ===
[[Tập tin:President_Ford_receives_a_swine_flu_inoculation_-_NARA_-_7064718.jpg|nhỏ|Tổng thống Hoa Kỳ [[Gerald Ford]] được tiêm vắc xin phòng bệnh cúm lợn.]]
Chiến dịch tiêm chủng [[cúm lợn]] của Mỹ [[Bùng phát dịch cúm lợn năm 1976|để đối phó với đợt bùng phát dịch cúm lợn năm 1976]] đã được gọi là "sự thất bại của bệnh cúm lợn" bởi vì đợt bùng phát không dẫn đến [[đại dịch]] như Tổng thống Mỹ [[Gerald Ford]] đã lo sợ và vắc-xin được tung ra vội vàng. Sau đó nó được phát hiện là làm gia tăng số [[Hội chứng Guillain-Barré|ca mắc Hội chứng Guillain – Barré]] hai tuần sau khi chủng ngừa. Các quan chức chính phủ đã ngừng chiến dịch tiêm chủng hàng loạt do lo lắng về tính an toàn của vắc-xin cúm lợn. Công chúng Mỹ đã sợ hãi về [[Tiêm chủng|chiến dịch tiêm chủng]] hơn là bản thân virus cúm và các chính sách tiêm chủng nói chung đã bị thách thức.<ref>{{Chú thích sách|title=Vaccinophobia and Vaccine Controversies of the 21st Century|last=Chatterjee|first=Archana|publisher=Springer Science & Business Media|year=2013|isbn=9781461474388|pages=8}}</ref>

Trong [[đại dịch cúm 2009]], tranh cãi đáng kể nổ ra về việc liệu các [[Vắc xin đại dịch cúm năm 2009|vắc-xin cúm H1N1 2009]] là ở an toàn, giữa các quốc gia khác, [[Pháp]] . Nhiều nhóm người Pháp khác nhau đã công khai chỉ trích loại vắc-xin này có khả năng gây nguy hiểm.<ref>{{Chú thích tạp chí|vauthors=Ward JK|date=June 2016|title=Rethinking the antivaccine movement concept: A case study of public criticism of the swine flu vaccine's safety in France|journal=Social Science & Medicine|volume=159|pages=48–57|doi=10.1016/j.socscimed.2016.05.003|pmid=27173740}}</ref> Do có những điểm tương đồng giữa [[Đại dịch virus H1N1/09|vi rút cúm A subtype H1N1 2009]] và vi rút cúm A/NJ năm 1976, nhiều quốc gia đã thiết lập hệ thống giám sát về các tác dụng phụ liên quan đến vắc xin đối với sức khỏe con người. Mối liên hệ có thể có giữa vắc xin cúm H1N1 2009 và các trường hợp mắc Hội chứng Guillain – Barré đã được nghiên cứu ở Châu Âu và Hoa Kỳ.<ref>{{Chú thích sách|title=Vaccinophobia and Vaccine Controversies of the 21st Century|last=Chatterjee|first=Archana|publisher=Springer Science & Business Media|year=2013|isbn=9781461474388|pages=325}}</ref>

=== Các quan ngại khác về an toàn ===
Các mối quan tâm an toàn khác về vắc-xin đã được quảng bá trên Internet, trong các cuộc họp không chính thức, trong sách và tại các hội nghị chuyên đề. Chúng bao gồm các giả thuyết rằng tiêm chủng có thể gây ra [[Cơn động kinh|co giật động kinh]], [[dị ứng]], [[đa xơ cứng]] và các [[bệnh tự miễn dịch]] như [[Bệnh tiểu đường loại 1|tiểu đường type 1]], cũng như các giả thuyết cho rằng tiêm chủng có thể lây truyền [[Bệnh viêm não thể bọt biển ở bò|bệnh não thể xốp ở bò]], [[Virus Viêm gan C|vi rút viêm gan C]] và [[HIV]]. Các giả thuyết này đã được điều tra, với kết luận rằng vắc xin hiện đang sử dụng đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn cao và những lời chỉ trích về tính an toàn của vắc xin trên báo chí phổ biến là không có cơ sở.<ref name="Marshall2013">{{Chú thích tạp chí|last=Marshall|first=GS|date=2013|title=Roots of vaccine hesitancy|journal=S D Med|volume=Spec no|pages=52–57|pmid=23444592}}</ref><ref name="Schneeweiss2">{{Chú thích tạp chí|vauthors=Schneeweiss B, Pfleiderer M, Keller-Stanislawski B|date=August 2008|title=Vaccination safety update|journal=Deutsches Ärzteblatt International|volume=105|issue=34–35|pages=590–95|doi=10.3238/arztebl.2008.0590|pmc=2680557|pmid=19471677}}</ref><ref name="Mailand2017">{{Chú thích tạp chí|last=Mailand|first=MT|last2=Frederiksen|first2=JL|date=June 2017|title=Vaccines and multiple sclerosis: a systematic review.|journal=Journal of Neurology|volume=264|issue=6|pages=1035–50|doi=10.1007/s00415-016-8263-4|pmid=27604618}}</ref><ref name="Rewers2016">{{Chú thích tạp chí|last=Rewers|first=M|last2=Ludvigsson|first2=J|date=June 2016|title=Environmental risk factors for type 1 diabetes.|journal=Lancet|volume=387|issue=10035|pages=2340–48|doi=10.1016/S0140-6736(16)30507-4|pmc=5571740|pmid=27302273}}</ref> Các nghiên cứu dịch tễ học lớn được kiểm soát tốt đã được tiến hành và kết quả không ủng hộ giả thuyết rằng vắc xin gây ra các bệnh mãn tính. Hơn nữa, một số loại vắc xin có khả năng ngăn ngừa hoặc sửa đổi nhiều hơn là gây ra hoặc làm trầm trọng thêm các bệnh tự miễn dịch.<ref name="Hackett-Offit2">{{Chú thích tạp chí|last=Offit, Paul A.|last2=Hackett, Charles J.|year=2003|title=Addressing Parents' Concerns: Do Vaccines Cause Allergic or Autoimmune Diseases?|journal=Pediatrics|volume=111|issue=3|pages=653–59|doi=10.1542/peds.111.3.653|pmid=12612250|doi-access=free}}</ref><ref name="Elwood2018">{{Chú thích tạp chí|last=Elwood|first=JM|last2=Ameratunga|first2=R|date=September 2018|title=Autoimmune diseases after hepatitis B immunization in adults: Literature review and meta-analysis, with reference to 'autoimmune/autoinflammatory syndrome induced by adjuvants' (ASIA).|journal=Vaccine|type=Systematic Review & Meta-Analysis|volume=36|issue=38|pages=5796–802|doi=10.1016/j.vaccine.2018.07.074|pmid=30100071}}</ref> Một mối quan tâm chung khác mà các bậc cha mẹ thường có là về cơn đau liên quan đến việc tiêm vắc-xin khi đi khám tại phòng khám của bác sĩ.<ref name="Edwards2016">{{Chú thích tạp chí|last=Edwards|first=Kathryn M.|last2=Hackell|first2=Jesse M.|date=29 August 2016|title=Countering Vaccine Hesitancy|journal=Pediatrics|volume=138|issue=3|pages=e20162146|doi=10.1542/peds.2016-2146|pmid=27573088|lay-url=http://www.aappublications.org/news/2016/08/29/VaccineHesitancy082916|lay-source=AAP News|lay-date=August 29, 2016|doi-access=free}}</ref> Điều này có thể dẫn đến yêu cầu giãn cách thời gian giữa các mũi tiêm của những người làm cha mẹ; tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra phản ứng căng thẳng của trẻ không khác nhau chút nào khi được tiêm một mũi so với hai mũi. Hành động giãn cách giữa các lần tiêm chủng thực sự có thể dẫn đến những kích thích căng thẳng hơn cho đứa trẻ.<ref name="Smith20152">{{Chú thích tạp chí|last=Smith|first=MJ|date=November 2015|title=Promoting Vaccine Confidence|journal=Infectious Disease Clinics of North America|type=Review|volume=29|issue=4|pages=759–69|doi=10.1016/j.idc.2015.07.004|pmid=26337737}}</ref>

== Nỗi sợ kim tiêm ==
[[Nỗi ám ảnh về vết thương do chích máu]] và [[Hội chứng sợ kim tiêm|nỗi sợ kim tiêm]] nói chung và vết tiêm, có thể khiến mọi người tránh tiêm chủng. Một cuộc khảo sát được thực hiện vào tháng 1 và tháng 2 năm 2021 ước tính điều này là nguyên nhân dẫn đến 10% tỷ lệ do dự vắc xin COVID-19 ở Anh vào thời điểm đó.<ref name="Freeman">{{Chú thích báo|url=https://theconversation.com/needle-phobia-could-be-the-cause-of-10-of-covid-vaccine-hesitancy-in-the-uk-new-research-162678|title=Needle phobia could be the cause of 10% of COVID vaccine hesitancy in the UK – new research|last=Daniel Freeman|date=16 June 2021|work=[[The Conversation (website)|The Conversation]]}}</ref><ref>{{Chú thích tạp chí|last=Daniel Freeman|last2=Bao Sheng Loe|last3=Ly-Mee Yu|last4=Jason Freeman|last5=Andrew Chadwick|last6=Cristian Vaccari|date=16 May 2021|title=Effects of different types of written vaccination information on COVID-19 vaccine hesitancy in the UK (OCEANS-III): a single-blind, parallel-group, randomised controlled trial|journal=The Lancet|doi=10.1016/S2468-2667(21)00096-7}}</ref>

[[Hội chứng sợ kim tiêm|Nhiều phương pháp điều trị nỗi sợ kim tiêm]] khác nhau có thể giúp khắc phục vấn đề này, từ giảm đau tại thời điểm tiêm đến liệu pháp hành vi lâu dài.<ref name="Baxter">{{Chú thích web|url=https://theconversation.com/over-half-of-adults-unvaccinated-for-covid-19-fear-needles-heres-whats-proven-to-help-161636|tựa đề=Over half of adults unvaccinated for COVID-19 fear needles – here’s what’s proven to help|tác giả=Amy Baxter m|ngày=11 Jun 2021|website=[[The Conversation (website)|The Conversation]]}}</ref> Căng cơ dạ dày có thể giúp tránh [[ngất xỉu]], chửi thề có thể làm giảm cảm giác đau và mất tập trung cũng có thể cải thiện trải nghiệm nhận thức, chẳng hạn như giả vờ ho, thực hiện một nhiệm vụ trực quan, xem video hoặc chơi trò chơi điện tử.<ref name="Baxter" /> Để tránh khiến những người mắc chứng sợ kim tiêm, các nhà nghiên cứu cập nhật vắc-xin khuyến cáo không nên sử dụng hình ảnh về kim tiêm, người bị tiêm hoặc khuôn mặt biểu lộ cảm xúc tiêu cực (như một đứa trẻ đang khóc) trong các tài liệu quảng cáo. Thay vào đó, họ đề xuất những bức ảnh chính xác về mặt y tế mô tả những người khác nhau tươi cười, đang cầm bông băng, cầm thẻ tiêm chủng hoặc ống tay áo cuộn lại; cận cảnh lọ thuốc thay vì kim tiêm; và mô tả những người phát triển và thử nghiệm vắc xin.<ref>{{Chú thích web|url=https://theconversation.com/pictures-of-covid-injections-can-scare-the-pants-off-people-with-needle-phobias-use-these-instead-157963|tựa đề=Pictures of COVID injections can scare the pants off people with needle phobias. Use these instead|tác giả=Holly Seale|tác giả 2=Jessica Kaufman|ngày=8 April 2021|website=[[The Conversation (website)|The Conversation]]}}</ref>

Việc sử dụng các [[Liều tăng cường|mũi tiêm nhắc lại]] cho các loại vắc-xin khoảng 5 tuổi mà không giảm đau có thể góp phần làm tăng tỷ lệ mắc chứng sợ kim tiêm.<ref name="Baxter2">{{Chú thích web|url=https://theconversation.com/over-half-of-adults-unvaccinated-for-covid-19-fear-needles-heres-whats-proven-to-help-161636|tựa đề=Over half of adults unvaccinated for COVID-19 fear needles – here’s what’s proven to help|tác giả=Amy Baxter m|ngày=11 Jun 2021|website=[[The Conversation (website)|The Conversation]]}}</ref>

Việc phát triển các loại vắc-xin có thể đưa vào cơ thể bằng đường uống hoặc bằng [[vòi phun tia]] có thể tránh gây ra chứng sợ kim tiêm.<ref>{{Chú thích web|url=https://theconversation.com/a-covid-19-vaccine-may-come-without-a-needle-the-latest-vaccine-to-protect-without-jabbing-146564|tựa đề=A COVID-19 vaccine may come without a needle, the latest vaccine to protect without jabbing|tác giả=Vasso Apostolopoulos|tác giả 2=Maja Husaric|ngày=30 September 2020|website=[[The Conversation (website)|The Conversation]]|tác giả 3=Maximilian de Courten}}</ref>

== Sơ suất và lừa đảo ==

=== CIA và phòng tiêm chủng giả ===
Ở Pakistan, [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|CIA]] đã điều hành một phòng tiêm chủng giả nhằm tìm cách xác định vị trí của [[Osama bin Laden|trùm khủng bố Osama bin Laden]].<ref name=":2">{{Chú thích tạp chí|last=Kennedy|first=Jonathan|date=October 2017|title=How Drone Strikes and a Fake Vaccination Program Have Inhibited Polio Eradication in Pakistan: An Analysis of National Level Data|url=http://qmro.qmul.ac.uk/xmlui/handle/123456789/25135|journal=International Journal of Health Services: Planning, Administration, Evaluation|volume=47|issue=4|pages=807–25|doi=10.1177/0020731417722888|issn=1541-4469|pmid=28764582}}</ref><ref>{{Chú thích báo|url=https://www.nytimes.com/2012/07/10/health/cia-vaccine-ruse-in-pakistan-may-have-harmed-polio-fight.html|title=C.I.A. Vaccine Ruse May Have Harmed the War on Polio|last=Jr|first=Donald G. McNeil|date=2012-07-09|work=The New York Times|access-date=2020-07-03|language=en-US|issn=0362-4331}}</ref> Hậu quả trực tiếp là đã có một số vụ tấn công và nhân viên tiêm chủng tử vong. Một số nhà truyền đạo Hồi giáo và các nhóm chiến binh, bao gồm cả một số phe phái của [[Taliban]], coi tiêm chủng là một âm mưu giết hoặc triệt sản người Hồi giáo.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.npr.org/sections/goatsandsoda/2018/01/23/580002283/pakistan-raises-its-guard-after-two-polio-vaccinators-are-gunned-down|tựa đề=Pakistan Raises Its Guard After 2 Polio Vaccinators Are Gunned Down|website=NPR.org}}</ref> Các nỗ lực xóa sổ bệnh bại liệt cũng bị gián đoạn bởi [[Các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái ở Pakistan|các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái]] của Mỹ.<ref name=":2" /> Đây là một phần lý do tại sao Pakistan và Afghanistan là những quốc gia duy nhất còn lưu hành bệnh bại liệt tính đến năm 2015.<ref>{{Chú thích báo|url=https://www.bbc.com/news/world-asia-36090891|title=Seven shot dead in Pakistan polio attack|date=April 20, 2016|work=BBC News|via=bbc.com}}</ref>

=== Vắc xin COVID-19 giả ===
Vào tháng 7 năm 2021, [[Ấn Độ|cảnh sát Ấn Độ]] bắt giữ 14 người vì sử dụng các liều [[Nước muối sinh lý|vắc-xin nước muối]] giả thay vì [[Vắc-xin COVID-19 của Oxford–AstraZeneca|vắc-xin AstraZeneca]] tại gần 12 điểm tiêm chủng tư nhân ở [[Mumbai]]. Ban tổ chức, bao gồm các chuyên gia y tế, đã tính phí từ 10 đến 17 đô la Mỹ cho mỗi liều và hơn 2.600 người đã trả tiền để nhận vắc xin.<ref>{{Chú thích báo|url=https://www.nytimes.com/2021/07/04/world/asia/india-covid-vaccine-scam.html|title=Indian police investigate whether scammers gave thousands of shots of salt water instead of vaccine.|last=Kumar|first=Hari|date=2021-07-04|work=The New York Times|access-date=2021-07-07|language=en-US|issn=0362-4331}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://www.npr.org/2021/07/09/1014512227/thousands-given-fake-vaccines-through-scam-in-india|tựa đề=Thousands Given Fake Vaccines Through Scam In India|website=NPR.org|ngôn ngữ=en|ngày truy cập=2021-07-10}}</ref> [[Chính phủ Ấn Độ|Chính phủ liên bang]] hạ thấp vụ bê bối, tuyên bố những trường hợp này mang tính riêng lẻ. [[McAfee]] tuyên bố Ấn Độ nằm trong số các quốc gia hàng đầu bị các ứng dụng giả mạo nhắm đến để thu hút mọi người bằng lời hứa tiêm vắc xin.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.dw.com/en/india-fake-vaccines-undermine-fight-against-covid/a-58122010|tựa đề=India: Fake vaccines undermine fight against COVID {{!}} DW {{!}} 01.07.2021|tác giả=|tên=|website=Deutsche Welle|ngôn ngữ=en-GB|ngày truy cập=2021-07-10}}</ref>

Ở [[Bhopal]], những người dân khu ổ chuột đã nhầm lẫn khi nghĩ rằng họ sẽ nhận được vắc-xin COVID-19 đã được phê duyệt, nhưng thay vào đó thực tế là một phần của thử nghiệm lâm sàng thử nghiệm đối với vắc-xin nội địa [[Covaxin]]. Chỉ 50% số người tham gia thử nghiệm được tiêm vắc-xin, số còn lại nhận được [[giả dược]]. Một người tham gia đã nói, "... Tôi không biết rằng có khả năng là bạn được tiêm nước cất." <ref>{{Chú thích web|url=https://www.cnn.com/2021/02/25/asia/india-vaccine-trials-covid-ethics-intl-dst-hnk/index.html|tựa đề=More than a dozen slum residents in an Indian city say they didn't know they were part of a clinical vaccine trial|tác giả=CNN|tên=Esha Mitra and Julia Hollingsworth|website=CNN|ngày truy cập=2021-07-11}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://science.thewire.in/health/peoples-hospital-bhopal-covaxin-clinical-trials-exploitation-ethics-ground-report/|tựa đề=How Covaxin Trial Participants in Bhopal Were Misled|tác giả=Bhuyan|tên=Anoo|ngày=2021-01-14|website=The Wire Science|ngôn ngữ=en-GB|ngày truy cập=2021-07-11}}</ref>

=== Phân biệt chủng tộc trong y tế ===
Một số người trong các nhóm người trải qua [[phân biệt chủng tộc trong y tế]] ít sẵn sàng tin tưởng các bác sĩ và y học hiện đại do các sự cố lịch sử có thật về [[Thử nghiệm phi đạo đức của con người|thí nghiệm phi đạo đức của con người]] và [[Triệt sản bắt buộc|việc triệt sản không tự nguyện]]. Các ví dụ nổi tiếng bao gồm [[Thử nghiệm phi đạo đức của con người|các cuộc thử nghiệm ma túy ở Châu Phi]] mà không có sự đồng ý rõ ràng, [[Nghiên cứu bệnh giang mai Tuskegee]], chiết xuất các tế bào sinh lợi từ [[Henrietta Lacks]], và các thí nghiệm phân biệt chủng tộc của [[Cornelius P. Rhoads]] ở Puerto Rico.

Để khắc phục kiểu thiếu tin tưởng này, các chuyên gia khuyến nghị nên bao gồm các mẫu đại diện của đa số và thiểu số trong các thử nghiệm thuốc, bao gồm cả các nhóm thiểu số trong thiết kế nghiên cứu, cẩn trọng về sự đồng ý và minh bạch về quá trình thiết kế và thử nghiệm thuốc.<ref>{{Chú thích web|url=https://time.com/5925074/black-americans-covid-19-vaccine-distrust/|tựa đề=Fueled by a History of Mistreatment, Black Americans Distrust the New COVID-19 Vaccines|tác giả=Dezimey Kum|ngày=28 Dec 2020}}</ref>


== Tác động của việc giảm tiêm chủng ==
== Tác động của việc giảm tiêm chủng ==

Phiên bản lúc 06:45, ngày 29 tháng 7 năm 2021

James Gillray, The Cow-Pock—or—the Wonderful Effects of the New Inoculation! (1802)

Tranh cãi về vắc-xin đã xuất hiện từ gần 80 năm trước khi các quy định pháp luật về vắc-xintiêm chủng được giới thiệu. Bất chấp sự đồng thuận khoa học cao[1][2][3] rằng vắc-xin an toàn và hiệu quả,[4] những lo ngại không có căn cứ về tính an toàn vẫn diễn ra, dẫn đến sự bùng phát và tử vong các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc-xin.[5][6][7][8][9][10] Một nguồn gốc khác của cuộc tranh cãi là liệu tiêm chủng bắt buộc có vi phạm quyền tự do dân sự hay làm giảm niềm tin của công chúng vào tiêm chủng.[10][11][12]

Tính hiệu quả

Rubella giảm mạnh khi tiêm chủng phổ quát được giới thiệu, theo CDC.

Bằng chứng khoa học về tính hiệu quả của các chiến dịch tiêm chủng quy mô lớn được thiết lập vững chắc.[13] Các chiến dịch tiêm chủng đã thanh toán bệnh đậu mùa mà đã từng giết chết 1/7 trẻ emchâu Âu[14] và gần như đã loại bỏ được bệnh bại liệt. Một minh chứng khiêm tốn hơn, là các bệnh nhiễm trùng do Haemophilus influenzae, nguyên nhân chính gây viêm màng não do vi khuẩn và các bệnh nghiêm trọng khác ở trẻ em, đã giảm hơn 99% ở Mỹ kể từ khi vắc-xin được đưa vào năm 1988.[15] Người ta ước tính rằng tiêm chủng đầy đủ, từ lúc còn sơ sinh đến khi thiếu niên, tất cả trẻ em Hoa Kỳ sinh ra trong một năm nhất định nào đó sẽ có 33.000 người được cứu sống và ngăn ngừa được 14 triệu ca nhiễm trùng.[16]

Một số ý kiến phản bác lại cho rằng việc giảm các bệnh truyền nhiễm này là kết quả của việc cải thiện vệ sinh và điều kiện vệ sinh (chứ không phải tiêm chủng), hay những bệnh này đã bị suy giảm dần trước khi các loại vắc-xin cụ thể được giới thiệu. Những tuyên bố này không được hỗ trợ bởi dữ liệu khoa học; tỷ lệ mắc các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc-xin có xu hướng dao động theo thời gian cho đến khi các loại vắc-xin cụ thể được đưa vào, thì tại thời điểm này, tỷ lệ này giảm xuống gần như bằng không. Trang web của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ đã đưa ra lập luận nhằm chống lại những nhận thức sai lầm phổ biến về vắc-xin rằng: ''Chúng tôi mong đợi sự tin tưởng cải thiện vệ sinh tốt hơn khiến tỷ lệ mắc từng bệnh giảm xuống, đúng vào thời điểm loại vắc-xin cho bệnh đó được giới thiệu?''[17]

Lời kêu gọi tập hợp khác của phong trào chống vắc-xin là kêu gọi các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, trong đó một nhóm trẻ em thử nghiệm được tiêm chủng trong khi nhóm đối chứng không được chủng ngừa. Một nghiên cứu như vậy sẽ không bao giờ được chấp thuận vì nó đòi hỏi phải cố ý từ chối việc chăm sóc y tế tiêu chuẩn cho trẻ em, khiến nghiên cứu này trở nên phi đạo đức. Các nghiên cứu đã được thực hiện để so sánh những người được tiêm chủng với những người chưa được tiêm chủng, nhưng các nghiên cứu này không phải là ngẫu nhiên. Hơn nữa, đã có một tài liệu chứng minh tính an toàn của vắc-xin bằng các phương pháp thử nghiệm khác.[18]

Các nhà chỉ trích khác biện luận khả năng miễn dịch được cung cấp bởi vắc-xin chỉ là tạm thời và đòi hỏi cần phải có thuốc tăng cường, trong khi những người còn sống sau mắc bệnh đã được miễn dịch vĩnh viễn.[10] Các triết lý của một số người hành nghề y học thay thế (“giải pháp thay thế thuốc”) không cùng ý tưởng vắc-xin có hiệu quả.[19]

Sức khỏe cộng đồng

Charlotte Cleverley-Bisman đã bị cắt cụt một phần của cả tứ chi khi mới 7 tháng tuổi do bệnh viêm não mô cầu.[20] Việc tiêm chủng rộng rãi hơn có thể bảo vệ những đứa trẻ như Cleverley-Bisman, những đứa trẻ còn quá nhỏ để tiêm phòng, khỏi mắc bệnh thông qua phát triển miễn dịch cộng đồng.[21]

Việc phổ cập vắc xin không đầy đủ làm tăng nguy cơ mắc bệnh cho toàn bộ dân số, bao gồm cả những người đã được tiêm vắc xin, vì nó làm giảm khả năng miễn dịch cộng đồng. Ví dụ, vắc-xin sởi được tiêm cho trẻ 9-12 tháng tuổi, và khoảng thời gian ngắn giữa sự biến mất của kháng thể mẹ (trước đó vắc-xin thường không chuyển đổi huyết thanh) và nhiễm trùng tự nhiên có nghĩa là trẻ được tiêm chủng thường xuyên vẫn dễ bị tổn thương. Khả năng miễn dịch cộng đồng sẽ giảm bớt tính dễ bị tổn thương này nếu tất cả trẻ em đều được tiêm chủng. Tăng khả năng miễn dịch cộng đồng trong thời kỳ bùng phát hoặc nguy cơ bùng phát có lẽ là cách biện minh được chấp nhận rộng rãi nhất cho việc tiêm phòng đại trà. Khi một loại vắc-xin mới được giới thiệu, việc tiêm chủng đại trà sẽ giúp tăng tỷ lệ bao phủ nhanh chóng.[22]

Nếu đủ lượng dân cư được tiêm phòng, thì khả năng miễn dịch cộng đồng sẽ có hiệu lực, làm giảm nguy cơ đối với những người không thể nhận vắc xin vì họ quá trẻ hoặc già, suy giảm miễn dịch hoặc dị ứng nghiêm trọng với các thành phần trong vắc xin.[23] Kết quả đối với những người có hệ thống miễn dịch bị tổn hại bị nhiễm bệnh thường tồi tệ hơn so với mặt bằng dân số chung.[24]

Hiệu quả chi phí

Các vắc xin thường được sử dụng có hiệu quả về chi phí và phòng ngừa để tăng cường sức khỏe, so với việc điều trị bệnh cấp tính hoặc mãn tính. Tại Hoa Kỳ trong năm 2001, việc chủng ngừa định kỳ cho trẻ em chống lại bảy bệnh được ước tính sẽ tiết kiệm hơn 40 tỷ đô la cho mỗi nhóm dân số năm sinh trong tổng chi phí xã hội, bao gồm 10 tỷ đô la chi phí y tế trực tiếp và tỷ lệ lợi ích xã hội trên chi phí tiêm chủng này được ước tính là được 16,5.[25]

Sự cần thiết

Khi một chương trình tiêm chủng làm giảm thành công mối đe dọa bệnh tật, nó có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh khi những ký ức văn hóa về ảnh hưởng của căn bệnh đó mờ đi. Lúc này, cha mẹ có thể cảm thấy mình không có gì để mất khi không tiêm phòng cho con.[26] Nếu có đủ số người hy vọng trở thành những người đi ké xe miễn phí, nhận được những lợi ích của miễn dịch cộng đồng mà không cần tiêm phòng, thì mức độ tiêm phòng có thể giảm xuống mức mà khả năng miễn dịch cộng đồng không còn hiệu quả.[27] Theo Jennifer Reich, những bậc cha mẹ tin rằng tiêm chủng là khá hiệu quả nhưng có thể thích con cái của họ vẫn chưa được tiêm chủng, là những người có nhiều khả năng bị thuyết phục để thay đổi quyết định của họ, miễn là họ được tiếp cận đúng cách.[28]

Tính an toàn

Trong khi một số nhà chống tiêm chủng công khai phủ nhận những cải thiện của việc tiêm chủng đối với sức khỏe cộng đồng hoặc tin vào các thuyết âm mưu,[29] việc viện dẫn những lo ngại về sự an toàn là phổ biến hơn nhiều.[30] Như với bất kỳ điều trị y tế nào, vẫn có nguy cơ tiềm tàng vắc-xin gây nên những biến chứng nghiêm trọng,[31] như phản ứng dị ứng nặng, nhưng không giống như hầu hết các can thiệp y tế khác, vắc-xin được cung cấp cho người khỏe mạnh và do đó, tiêu chuẩn về tính an toàn được kỳ vọng cao hơn.[32] Mặc dù những biến chứng nghiêm trọng do tiêm chủng có thể xảy ra, nhưng chúng cực kỳ hiếm gặp và ít phổ biến hơn rất nhiều so với các nguy cơ tương tự đến từ các bệnh tật mà vắc-xin ngăn ngừa.[17] Khi sự thành công của các chương trình tiêm chủng tăng lên và tỷ lệ mắc bệnh giảm đi, sự chú ý của công chúng chuyển hướng từ nguy cơ mắc bệnh sang nguy cơ tiêm chủng,[33] và điều này đang trở thành thách thức cho các cơ quan y tế trong việc duy trì sự ủng hộ của cộng đồng để tiến hành các chương trình tiêm chủng.[34]

Sự thành công vượt bậc của một số loại vắc xin đã làm cho một số bệnh trở nên hiếm gặp và do đó, điều này đã dẫn đến suy nghĩ heuristic sai lầm, trong việc cân nhắc rủi ro với lợi ích, giữa những người do dự không muốn tiêm vắc xin.[35] Một khi các bệnh như vậy (ví dụ, Haemophilus influenzae B) giảm tỷ lệ mắc bệnh, mọi người có thể không còn đánh giá được mức độ nghiêm trọng của bệnh do không thấy bệnh xuất hiện và trở nên tự mãn.[35] Việc thiếu kinh nghiệm bản thân đối với các bệnh này làm giảm nguy cơ nhận thức được và do đó làm giảm lợi ích nhận thức của việc chủng ngừa.[36] Ngược lại, một số bệnh nhất định (ví dụ, cúm) vẫn phổ biến đến mức những người do dự với vắc-xin nhầm tưởng rằng bệnh không đe dọa sức khỏe mặc dù có bằng chứng rõ ràng rằng bệnh cúm gây ra mối đe dọa đáng kể đối với sức khỏe con người.[35] Thiên vị thiếu sótthành kiến không xác nhận cũng góp phần vào sự do dự không muốn tiêm vắc xin.[35][37]

Mối quan tâm về tính an toàn tiêm chủng thường đi theo một khuôn mẫu. Đầu tiên, một số nhà điều tra xét rằng sự gia tăng tỷ lệ hiện hành tình trạng y tế hoặc không rõ nguyên nhân là tác dụng bất lợi do tiêm chủng mang lại. Nghiên cứu ban đầu và những nghiên cứu theo sau của cùng một nhóm có phương pháp nghiên cứu không thỏa đáng - điển hình là nghiên cứu loạt ca bệnh không được kiểm soát hoặc kiểm soát kém. Loan báo trước cáo buộc vắc-xin về tác dụng bất lợi, cộng hưởng với những cá nhân mắc bệnh, cùng với việc đánh giá quá thấp nguy cơ tiềm tàng của việc từ bỏ tiêm phòng cho những đối tượng mà vắc-xin có thể bảo vệ. Trong khi đó những nhóm khác thì cố gắng phỏng lại nghiên cứu ban đầu nhưng thất bại để thu về kết quả tương tự. Cuối cùng, phải mất nhiều năm để lấy lại niềm tin của công chúng về vắc-xin.[33][38] Các tác dụng bất lợi được gán kết cho vắc-xin thường không rõ nguồn gốc, tỷ lệ mắc ngày càng tăng, một số tính hợp lý sinh học, xảy ra gần với thời điểm tiêm chủng và kết quả kinh hoàng.[39] Trong gần như tất cả các trường hợp, tác động sức khỏe cộng đồng bị giới hạn bởi ranh giới của nhiều nền văn hóa khác nhau: Người nói tiếng Anh lo ngại về một loại vắc-xin gây ra bệnh tự kỷ, trong khi người nói tiếng Pháp lo ngại về một loại vắc-xin khác gây ra bệnh đa xơ cứng, và người Nigeria lại lo ngại rằng vắc-xin thứ ba gây nên vô sinh.[40]

Tự kỷ

Ý tưởng về mối liên hệ giữa vắc-xin và chứng tự kỷ đã được nghiên cứu rộng rãi và được kết luận là sai.[41][42] Sự đồng thuận về mặt khoa học là không có mối quan hệ, nhân quả hay cách nào khác, giữa vắc-xin và tỷ lệ mắc bệnh tự kỷ,[43][44][45] và các thành phần vắc-xin không gây ra chứng tự kỷ.[46]

Tuy nhiên, phong trào chống tiêm chủng vẫn tiếp tục thúc đẩy những huyền thoại, thuyết âm mưu và thông tin sai lệch liên kết hai điều này.[47] Một chiến thuật đang phát triển dường như là "thúc đẩy nghiên cứu không liên quan [như] một tập hợp tích cực của một số nghiên cứu có liên quan hoặc có liên quan đến ngoại vi nhằm cố gắng biện minh cho khoa học làm cơ sở cho một tuyên bố đáng nghi vấn".[48]

Thiomersal

Thiomersal (được gọi là "thimerosal" ở Mỹ) là một chất bảo quản chống nấm được sử dụng với lượng nhỏ trong một số loại vắc xin đa liều (khi cùng một lọ được mở và sử dụng cho nhiều bệnh nhân) để ngăn ngừa nhiễm bẩn vắc xin. [49] Mặc dù hiệu quả của thiomersal, việc sử dụng thiomersal còn gây tranh cãi vì nó có thể bị chuyển hóa hoặc phân hủy trong cơ thể thành ethylmercury (C2H5Hg+) và thiosalicylate.[50][51] Kết quả là vào năm 1999, Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh (CDC) và Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) đã yêu cầu các nhà sản xuất vắc xin loại bỏ thiomersal khỏi vắc xin càng nhanh càng tốt theo nguyên tắc phòng ngừa. Thiomersal hiện không có mặt trong tất cả các loại vắc xin thông thường của Hoa Kỳ và Châu Âu, ngoại trừ một số chế phẩm của vắc xin cúm.[52] Lượng vết vẫn còn trong một số vắc xin do quá trình sản xuất, ở mức tối đa xấp xỉ một microgram, khoảng 15% lượng thủy ngân trung bình hàng ngày ở Hoa Kỳ đối với người lớn và 2,5% mức hàng ngày được WHO coi là có thể chấp nhận được.[51][53]

Hành động này làm dấy lên lo ngại rằng thiomersal có thể là nguyên nhân gây ra chứng tự kỷ.[52] Ý tưởng này hiện đang bị bác bỏ, vì tỷ lệ mắc bệnh tự kỷ tăng đều đặn ngay cả sau khi loại bỏ thiomersal khỏi vắc-xin thời thơ ấu.[54] Hiện tại không có bằng chứng khoa học được chấp nhận rằng việc tiếp xúc với thiomersal là một yếu tố gây ra chứng tự kỷ.[55][56] Kể từ năm 2000, các bậc cha mẹ ở Hoa Kỳ đã theo đuổi một khoản bồi thường hợp pháp từ một quỹ liên bang với lập luận rằng thiomersal gây ra chứng tự kỷ ở con họ.[57] Một ủy ban năm 2004 của Viện Y học Hoa Kỳ (IOM) ủng hộ việc bác bỏ bất kỳ mối quan hệ nhân quả nào giữa vắc xin chứa thiomersal và chứng tự kỷ.[58] Nồng độ thiomersal được sử dụng trong vắc xin như một chất kháng khuẩn nằm trong khoảng từ 0,001% (1 phần trong 100.000) đến 0,01% (1 phần trong 10.000).[59] Một loại vắc-xin chứa 0,01% thiomersal có 25 microgam thủy ngân trên mỗi liều 0,5 mL, gần bằng lượng thủy ngân nguyên tố được tìm thấy trong một lon cá ngừ nặng 3 ounce.[59] Có bằng chứng khoa học được đánh giá ngang hàng mạnh mẽ ủng hộ sự an toàn của vắc xin có chứa thiomersal.[59]

Vắc xin MMR

Ở Anh, vắc-xin MMR là chủ đề gây tranh cãi sau khi công bố trên tạp chí The Lancet năm 1998 của Andrew Wakefield và những người khác báo cáo tiền sử trường hợp của mười hai trẻ em hầu hết mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ khởi phát ngay sau khi tiêm vắc-xin.[60] Tại một cuộc họp báo năm 1998, Wakefield gợi ý rằng tiêm cho trẻ em với ba liều riêng biệt sẽ an toàn hơn so với tiêm một mũi duy nhất. Đề xuất này không được bài báo ủng hộ và một số nghiên cứu được đánh giá ngang hàng sau đó đã không cho thấy bất kỳ mối liên hệ nào giữa vắc-xin và chứng tự kỷ.[61] Sau đó, có thông tin cho rằng Wakefield đã nhận được tài trợ từ các đương sự chống lại các nhà sản xuất vắc xin và anh đã không thông báo cho đồng nghiệp hoặc cơ quan y tế về xung đột lợi ích của mình.[62] Nếu điều này được biết đến, việc xuất bản trong The Lancet sẽ không diễn ra theo cách mà nó đã làm.[63] Wakefield đã bị chỉ trích nặng nề về cơ sở khoa học và đạo đức về cách thức nghiên cứu được tiến hành[64] và vì đã gây ra sự sụt giảm tỷ lệ tiêm chủng, khi tỷ lệ tiêm chủng ở Anh đã giảm xuống còn 80% trong những năm sau khi nghiên cứu này được xuất bản.[65][66] Năm 2004, bản giải thích MMR và chứng tự kỷ của bài báo đã được chính thức rút lại bởi mười trong số mười ba đồng tác giả của nó,[67] và vào năm 2010 các biên tập viên của The Lancet đã rút lại toàn bộ bài báo.[68] Wakefield đã bị loại khỏi sổ đăng ký y tế của Vương quốc Anh, với một tuyên bố xác định cố ý làm sai lệch trong nghiên cứu được đăng trên The Lancet,[69] và bị cấm hành nghề y tại Vương quốc Anh.[70]

CDC, IOM của Học viện Khoa học Quốc gia, Bộ Y tế Australia và Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh đều kết luận rằng không có bằng chứng về mối liên hệ giữa vắc-xin MMR và chứng tự kỷ.[71][72][73][74] Một đánh giá của Cochrane kết luận rằng không có mối liên hệ đáng tin cậy nào giữa vắc-xin MMR và bệnh tự kỷ, rằng MMR đã ngăn ngừa được các bệnh vẫn mang lại gánh nặng tử vong và biến chứng, rằng sự thiếu tin tưởng vào MMR đã làm tổn hại sức khỏe cộng đồng, và rằng thiết kế và báo cáo về kết quả an toàn trong các nghiên cứu vắc xin MMR phần lớn là không đầy đủ.[75] Các đánh giá bổ sung đồng ý với các nhận định trên, với các nghiên cứu phát hiện ra rằng vắc-xin không liên quan đến chứng tự kỷ ngay cả ở những quần thể có nguy cơ cao có anh chị em mắc chứng tự kỷ.[76]

Năm 2009, The Sunday Times báo cáo rằng Wakefield đã thao túng dữ liệu bệnh nhân và báo cáo sai kết quả trong bài báo năm 1998 của mình, tạo ra mối liên hệ với chứng tự kỷ.[77] Một bài báo năm 2011 trên Tạp chí Y khoa Anh đã mô tả cách dữ liệu trong nghiên cứu đã bị Wakefield làm sai lệch để nó đi đến kết luận định trước.[78] Một bài xã luận đi kèm trên cùng một tạp chí đã mô tả công việc của Wakefield là một "gian lận tỉ mỉ" dẫn đến tỷ lệ tiêm chủng thấp hơn, khiến hàng trăm nghìn trẻ em gặp rủi ro và chuyển hướng năng lượng và tiền bạc khỏi nghiên cứu nguyên nhân thực sự của chứng tự kỷ.[79]

Một tòa án đặc biệt đã được triệu tập tại Hoa Kỳ để xem xét các khiếu nại theo Chương trình Bồi thường Thương tật do Vắc xin Quốc gia ra phán quyết vào ngày 12 tháng 2 năm 2009, rằng cha mẹ của trẻ tự kỷ không được bồi thường khi họ tranh cãi rằng một số vắc xin nhất định đã gây ra chứng tự kỷ cho con họ.[80]

Quá tải vắc xin

Quá tải vắc xin, một thuật ngữ phi y tế, là khái niệm cho rằng việc tiêm nhiều loại vắc xin cùng một lúc có thể áp đảo hoặc làm suy yếu hệ thống miễn dịch non nớt của trẻ và dẫn đến các tác dụng phụ.[81] Bất chấp những bằng chứng khoa học hoàn toàn trái ngược với ý kiến này,[82] vẫn có cha mẹ của trẻ tự kỷ tin rằng quá tải vắc-xin gây ra chứng tự kỷ.[83] Kết quả là tranh cãi đã khiến nhiều bậc cha mẹ trì hoãn hoặc tránh tiêm chủng cho con mình.[81] Những nhận thức sai lầm như vậy của cha mẹ là những trở ngại lớn đối với việc tiêm chủng cho trẻ em.[84]

Khái niệm về quá tải vắc xin còn sai sót ở một số cấp độ.[85] Bất chấp sự gia tăng số lượng vắc xin trong những thập kỷ gần đây, những cải tiến trong thiết kế vắc xin đã làm giảm tải lượng miễn dịch từ vắc xin; tổng số thành phần miễn dịch học trong 14 loại vắc xin được tiêm cho trẻ em Hoa Kỳ năm 2009 ít hơn mười phần trăm so với thành phần trong bảy loại vắc xin được tiêm vào năm 1980.[85] Một nghiên cứu được công bố vào năm 2013 cho thấy không có mối tương quan nào giữa chứng tự kỷ và số lượng kháng nguyên trong các loại vắc-xin mà trẻ em được tiêm cho đến hai tuổi. Trong số 1.008 trẻ em tham gia nghiên cứu, 1/4 số trẻ được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ sinh từ năm 1994 đến 1999, khi lịch tiêm vắc xin thông thường có thể chứa hơn 3.000 kháng nguyên (trong một mũi vắc xin DTP). Lịch chủng ngừa năm 2012 có thêm một số loại vắc-xin, nhưng số lượng kháng nguyên mà đứa trẻ được tiếp xúc khi hai tuổi là 315.[86][87] Vắc xin tạo ra một tải lượng miễn dịch rất nhỏ so với các mầm bệnh mà trẻ gặp phải một cách tự nhiên trong một năm điển hình;[85] tình trạng phổ biến ở thời thơ ấu như sốt và viêm tai giữa đặt ra thách thức lớn hơn nhiều đối với hệ thống miễn dịch so với vắc-xin,[88] và các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tiêm chủng, thậm chí nhiều lần tiêm chủng đồng thời, không làm suy yếu hệ thống miễn dịch[85] hoặc làm tổn hại đến khả năng miễn dịch tổng thể.[89] Việc thiếu bằng chứng ủng hộ giả thuyết quá tải vắc xin, kết hợp với những phát hiện này mâu thuẫn trực tiếp với nó, đã dẫn đến kết luận rằng các chương trình vắc xin được khuyến nghị hiện nay không làm "quá tải" hoặc làm suy yếu hệ thống miễn dịch.[90][91][92][93]

Bất kỳ thử nghiệm nào dựa trên việc không tiêm vắc-xin cho trẻ em đều bị coi là phi đạo đức,[94] và các nghiên cứu quan sát có thể bị nhầm lẫn bởi sự khác biệt trong hành vi tìm kiếm chăm sóc sức khỏe của trẻ em chưa được tiêm chủng. Do đó, chưa có nghiên cứu nào so sánh trực tiếp tỷ lệ mắc chứng tự kỷ ở trẻ em đã được tiêm chủng và chưa được tiêm chủng. Tuy nhiên, khái niệm quá tải vắc-xin là không phù hợp về mặt sinh học, vì trẻ được tiêm chủng và trẻ chưa được tiêm chủng có phản ứng miễn dịch giống nhau đối với các bệnh nhiễm trùng không liên quan đến vắc-xin và tự kỷ không phải là một bệnh qua trung gian miễn dịch, vì vậy các tuyên bố rằng vắc-xin có thể gây ra nó bằng cách làm quá tải hệ miễn dịch hệ thống đi ngược lại kiến thức hiện tại về cơ chế bệnh sinh của chứng tự kỷ. Do đó, ý tưởng cho rằng vắc xin gây ra chứng tự kỷ đã bị bác bỏ một cách hiệu quả bởi sức nặng của các bằng chứng hiện tại.[95]

Nhiễm trùng trước khi sinh

Có bằng chứng cho thấy tâm thần phân liệt có liên quan đến việc tiếp xúc trước khi sinh với bệnh rubella, cúmnhiễm trùng toxoplasmosis. Ví dụ, một nghiên cứu cho thấy nguy cơ mắc bệnh tâm thần phân liệt tăng gấp bảy lần khi các bà mẹ tiếp xúc với cúm trong ba tháng đầu của thai kỳ. Điều này có thể có ý nghĩa đối với sức khỏe cộng đồng, vì các chiến lược ngăn ngừa nhiễm trùng bao gồm tiêm chủng, vệ sinh đơn giản và, trong trường hợp nhiễm toxoplasma là dùng kháng sinh.[96] Dựa trên các nghiên cứu trên mô hình động vật, những lo ngại về mặt lý thuyết đã được đưa ra về mối liên hệ có thể có giữa bệnh tâm thần phân liệt và phản ứng miễn dịch của mẹ được kích hoạt bởi các kháng nguyên vi rút; một đánh giá năm 2009 kết luận rằng không có đủ bằng chứng để khuyến cáo sử dụng thường quy vắc xin cúm đa trị ba trong ba tháng đầu của thai kỳ, nhưng vắc xin này vẫn được khuyến cáo ngoài ba tháng đầu và trong những trường hợp đặc biệt như đại dịch hoặc ở phụ nữ mắc một số bệnh lý khác.[97] Ủy ban Cố vấn về Thực hành Tiêm chủng của CDC, Trường Cao đẳng Sản phụ khoa Hoa KỳHọc viện Bác sĩ Gia đình Hoa Kỳ đều khuyến nghị tiêm phòng cúm định kỳ cho phụ nữ mang thai, vì một số lý do:[98]

  • nguy cơ của người mẹ đối với các biến chứng y tế nghiêm trọng liên quan đến cúm trong 6 tháng cuối cùng;
  • tỷ lệ nhập viện liên quan đến cúm cao hơn so với phụ nữ không mang thai;
  • khả năng chuyển giao các kháng thể chống cúm từ mẹ sang con, bảo vệ trẻ khỏi bệnh cúm; và
  • một số nghiên cứu không tìm thấy tác hại nào đối với phụ nữ mang thai hoặc con cái của họ khi tiêm chủng.

Bất chấp các khuyến cáo này, chỉ có 16% phụ nữ Mỹ mang thai khỏe mạnh được khảo sát vào năm 2005 đã được tiêm phòng cúm.[99]

Mối quan ngại về thành phần

Các hợp chất nhôm được sử dụng như tá dược miễn dịch để tăng hiệu quả của nhiều loại vắc-xin.[100] Nhôm trong vắc-xin mô phỏng hoặc gây ra một lượng nhỏ tổn thương mô, khiến cơ thể phản ứng mạnh mẽ hơn với những gì nó nhìn thấy như một sự lây nhiễm nghiêm trọng và thúc đẩy sự phát triển của phản ứng miễn dịch lâu dài.[101][102] Trong một số trường hợp, các hợp chất này có liên quan đến đỏ, ngứa và sốt cấp thấp, [101] nhưng việc sử dụng nhôm trong vắc-xin không được liên kết với các sự kiện bất lợi nghiêm trọng.[100][103] Trong một số trường hợp, vắc-xin chứa nhôm có liên quan đến viêm myofascitis, tổn thương nhỏ cỡ kính hiển vi cục bộ có chứa muối nhôm kéo dài đến 8 năm. Tuy nhiên, các nghiên cứu kiểm soát trường hợp gần đây đã không tìm thấy các triệu chứng lâm sàng cụ thể ở các cá nhân có sinh thiết cho thấy MMF và không có bằng chứng cho thấy vắc-xin có chứa nhôm là một rủi ro sức khỏe nghiêm trọng hoặc biện minh cho những thay đổi đối với thực hành tiêm chủng.[100][103] Trẻ sơ sinh tiếp xúc với số lượng nhôm còn nhiều hơn trong sữa mẹ và sữa bột trẻ sơ sinh so với vắc-xin trong cuộc sống hàng ngày.[104] Nhìn chung, mọi người tiếp xúc với mức độ nhôm tự nhiên tự nhiên ở gần như tất cả các loại thực phẩm và nước uống.[105]Lượng nhôm có trong vắc-xin nhỏ, ít hơn một miligam và mức độ thấp như vậy không được cho là có hại cho sức khỏe con người.[105]

Những người do dự về vắc-xin cũng đã lên tiếng lo ngại về sự hiện diện của formaldehyde trong vắc-xin. Formaldehyde được sử dụng với nồng độ rất nhỏ để làm bất hoạt vi rút và độc tố vi khuẩn được sử dụng trong vắc xin.[106] Một lượng rất nhỏ formaldehyde tồn dư có thể có trong vắc xin nhưng thấp hơn nhiều so với giá trị có hại cho sức khỏe con người.[107][108] Mức độ có trong vắc xin là rất nhỏ khi so sánh với mức độ formaldehyde tự nhiên trong cơ thể người và không gây ra nguy cơ ngộ độc đáng kể.[106] Cơ thể con người liên tục sản xuất formaldehyde một cách tự nhiên và chứa lượng formaldehyde lớn nhất gấp 50–70 lần trong bất kỳ loại vắc xin nào.[106] Hơn nữa, cơ thể con người có khả năng phá vỡ formaldehyde tự nhiên cũng như một lượng nhỏ formaldehyde có trong vắc xin.[106] Không có bằng chứng liên quan đến việc tiếp xúc không thường xuyên với một lượng nhỏ formaldehyde có trong vắc-xin sẽ gây ra bệnh ung thư.[106]

Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh

Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS) thường gặp nhất ở trẻ sơ sinh trong khoảng thời gian trong đời khi chúng được chủng ngừa nhiều lần.[109] Vì nguyên nhân của SIDS vẫn chưa được xác định đầy đủ, điều này dẫn đến những lo ngại về việc liệu vắc-xin, đặc biệt là vắc-xin giải độc tố bạch hầu-uốn ván, có thể là một yếu tố nguyên nhân hay không.[109] Một số nghiên cứu đã điều tra điều này và không tìm thấy bằng chứng nào chứng minh mối liên hệ nhân quả giữa tiêm chủng và SIDS.[109][110] Vào năm 2003, Viện Y học Hoa Kỳ đã ủng hộ bác bỏ mối liên hệ nhân quả với việc tiêm chủng DTwP và SIDS sau khi xem xét các bằng chứng hiện có. [111] Các phân tích bổ sung về dữ liệu VAERS cũng cho thấy không có mối quan hệ giữa tiêm chủng và SIDS.[109] Các nghiên cứu đã chỉ ra mối tương quan tiêu cực giữa SIDS và tiêm chủng. Đó là trẻ em được tiêm chủng ít có nguy cơ tử vong hơn nhưng không có mối liên hệ nhân quả nào được tìm thấy. Một gợi ý là những trẻ sơ sinh ít bị SIDS thì có nhiều khả năng được đưa đi tiêm chủng hơn.[109][110][112]

Vắc xin bệnh than

Vào giữa những năm 1990, các báo cáo truyền thông về vắc-xin đã thảo luận về Hội chứng Chiến tranh Vùng Vịnh, một chứng rối loạn đa triệu chứng ảnh hưởng đến các cựu binh Mỹ trở về trong Chiến tranh Vùng Vịnh 1990–1991. Trong số các bài báo đầu tiên của tạp chí trực tuyến Slate là một bài của Atul Gawande, trong đó các binh sĩ được chủng ngừa bắt buộc, bao gồm cả tiêm chủng bệnh than, được coi là một trong những thủ phạm có khả năng gây ra các triệu chứng liên quan đến Hội chứng Chiến tranh Vùng Vịnh. Vào cuối những năm 1990, Slate đã xuất bản một bài báo về "cuộc nổi dậy" trong quân đội chống lại việc chủng ngừa bệnh than vì "sự sẵn có của các thông tin sai lệch về vắc-xin trên Internet". Slate tiếp tục báo cáo về những lo ngại về việc chủng ngừa bệnh than và đậu mùa cho quân đội Mỹ sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 và các bài báo về chủ đề này cũng xuất hiện trên trang web của Salon. [113] Các cuộc tấn công bệnh than năm 2001 làm gia tăng mối lo ngại về khủng bố sinh họcchính phủ Liên bang Hoa Kỳ đã tăng cường nỗ lực lưu trữ và tạo ra nhiều vắc-xin hơn cho công dân Mỹ.[113] Năm 2002, Mother Jones xuất bản một bài báo rất nghi ngờ về việc chủng ngừa bệnh than và đậu mùa mà Lực lượng Vũ trang Hoa Kỳ yêu cầu.[113] Trong cuộc xâm lược Iraq năm 2003, một cuộc tranh cãi rộng rãi hơn đã nổ ra sau đó trên các phương tiện truyền thông Mỹ về việc yêu cầu quân đội Mỹ phải tiêm phòng bệnh than.[113] Từ năm 2003 đến năm 2008, đã có hàng loạt các phiên tòa nhằm phản đối việc tiêm phòng bệnh than bắt buộc của quân đội Hoa Kỳ.[113]

Vắc xin cúm lợn

Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford được tiêm vắc xin phòng bệnh cúm lợn.

Chiến dịch tiêm chủng cúm lợn của Mỹ để đối phó với đợt bùng phát dịch cúm lợn năm 1976 đã được gọi là "sự thất bại của bệnh cúm lợn" bởi vì đợt bùng phát không dẫn đến đại dịch như Tổng thống Mỹ Gerald Ford đã lo sợ và vắc-xin được tung ra vội vàng. Sau đó nó được phát hiện là làm gia tăng số ca mắc Hội chứng Guillain – Barré hai tuần sau khi chủng ngừa. Các quan chức chính phủ đã ngừng chiến dịch tiêm chủng hàng loạt do lo lắng về tính an toàn của vắc-xin cúm lợn. Công chúng Mỹ đã sợ hãi về chiến dịch tiêm chủng hơn là bản thân virus cúm và các chính sách tiêm chủng nói chung đã bị thách thức.[114]

Trong đại dịch cúm 2009, tranh cãi đáng kể nổ ra về việc liệu các vắc-xin cúm H1N1 2009 là ở an toàn, giữa các quốc gia khác, Pháp . Nhiều nhóm người Pháp khác nhau đã công khai chỉ trích loại vắc-xin này có khả năng gây nguy hiểm.[115] Do có những điểm tương đồng giữa vi rút cúm A subtype H1N1 2009 và vi rút cúm A/NJ năm 1976, nhiều quốc gia đã thiết lập hệ thống giám sát về các tác dụng phụ liên quan đến vắc xin đối với sức khỏe con người. Mối liên hệ có thể có giữa vắc xin cúm H1N1 2009 và các trường hợp mắc Hội chứng Guillain – Barré đã được nghiên cứu ở Châu Âu và Hoa Kỳ.[116]

Các quan ngại khác về an toàn

Các mối quan tâm an toàn khác về vắc-xin đã được quảng bá trên Internet, trong các cuộc họp không chính thức, trong sách và tại các hội nghị chuyên đề. Chúng bao gồm các giả thuyết rằng tiêm chủng có thể gây ra co giật động kinh, dị ứng, đa xơ cứng và các bệnh tự miễn dịch như tiểu đường type 1, cũng như các giả thuyết cho rằng tiêm chủng có thể lây truyền bệnh não thể xốp ở bò, vi rút viêm gan CHIV. Các giả thuyết này đã được điều tra, với kết luận rằng vắc xin hiện đang sử dụng đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn cao và những lời chỉ trích về tính an toàn của vắc xin trên báo chí phổ biến là không có cơ sở.[117][118][119][120] Các nghiên cứu dịch tễ học lớn được kiểm soát tốt đã được tiến hành và kết quả không ủng hộ giả thuyết rằng vắc xin gây ra các bệnh mãn tính. Hơn nữa, một số loại vắc xin có khả năng ngăn ngừa hoặc sửa đổi nhiều hơn là gây ra hoặc làm trầm trọng thêm các bệnh tự miễn dịch.[121][122] Một mối quan tâm chung khác mà các bậc cha mẹ thường có là về cơn đau liên quan đến việc tiêm vắc-xin khi đi khám tại phòng khám của bác sĩ.[123] Điều này có thể dẫn đến yêu cầu giãn cách thời gian giữa các mũi tiêm của những người làm cha mẹ; tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra phản ứng căng thẳng của trẻ không khác nhau chút nào khi được tiêm một mũi so với hai mũi. Hành động giãn cách giữa các lần tiêm chủng thực sự có thể dẫn đến những kích thích căng thẳng hơn cho đứa trẻ.[124]

Nỗi sợ kim tiêm

Nỗi ám ảnh về vết thương do chích máunỗi sợ kim tiêm nói chung và vết tiêm, có thể khiến mọi người tránh tiêm chủng. Một cuộc khảo sát được thực hiện vào tháng 1 và tháng 2 năm 2021 ước tính điều này là nguyên nhân dẫn đến 10% tỷ lệ do dự vắc xin COVID-19 ở Anh vào thời điểm đó.[125][126]

Nhiều phương pháp điều trị nỗi sợ kim tiêm khác nhau có thể giúp khắc phục vấn đề này, từ giảm đau tại thời điểm tiêm đến liệu pháp hành vi lâu dài.[127] Căng cơ dạ dày có thể giúp tránh ngất xỉu, chửi thề có thể làm giảm cảm giác đau và mất tập trung cũng có thể cải thiện trải nghiệm nhận thức, chẳng hạn như giả vờ ho, thực hiện một nhiệm vụ trực quan, xem video hoặc chơi trò chơi điện tử.[127] Để tránh khiến những người mắc chứng sợ kim tiêm, các nhà nghiên cứu cập nhật vắc-xin khuyến cáo không nên sử dụng hình ảnh về kim tiêm, người bị tiêm hoặc khuôn mặt biểu lộ cảm xúc tiêu cực (như một đứa trẻ đang khóc) trong các tài liệu quảng cáo. Thay vào đó, họ đề xuất những bức ảnh chính xác về mặt y tế mô tả những người khác nhau tươi cười, đang cầm bông băng, cầm thẻ tiêm chủng hoặc ống tay áo cuộn lại; cận cảnh lọ thuốc thay vì kim tiêm; và mô tả những người phát triển và thử nghiệm vắc xin.[128]

Việc sử dụng các mũi tiêm nhắc lại cho các loại vắc-xin khoảng 5 tuổi mà không giảm đau có thể góp phần làm tăng tỷ lệ mắc chứng sợ kim tiêm.[129]

Việc phát triển các loại vắc-xin có thể đưa vào cơ thể bằng đường uống hoặc bằng vòi phun tia có thể tránh gây ra chứng sợ kim tiêm.[130]

Sơ suất và lừa đảo

CIA và phòng tiêm chủng giả

Ở Pakistan, CIA đã điều hành một phòng tiêm chủng giả nhằm tìm cách xác định vị trí của trùm khủng bố Osama bin Laden.[131][132] Hậu quả trực tiếp là đã có một số vụ tấn công và nhân viên tiêm chủng tử vong. Một số nhà truyền đạo Hồi giáo và các nhóm chiến binh, bao gồm cả một số phe phái của Taliban, coi tiêm chủng là một âm mưu giết hoặc triệt sản người Hồi giáo.[133] Các nỗ lực xóa sổ bệnh bại liệt cũng bị gián đoạn bởi các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái của Mỹ.[131] Đây là một phần lý do tại sao Pakistan và Afghanistan là những quốc gia duy nhất còn lưu hành bệnh bại liệt tính đến năm 2015.[134]

Vắc xin COVID-19 giả

Vào tháng 7 năm 2021, cảnh sát Ấn Độ bắt giữ 14 người vì sử dụng các liều vắc-xin nước muối giả thay vì vắc-xin AstraZeneca tại gần 12 điểm tiêm chủng tư nhân ở Mumbai. Ban tổ chức, bao gồm các chuyên gia y tế, đã tính phí từ 10 đến 17 đô la Mỹ cho mỗi liều và hơn 2.600 người đã trả tiền để nhận vắc xin.[135][136] Chính phủ liên bang hạ thấp vụ bê bối, tuyên bố những trường hợp này mang tính riêng lẻ. McAfee tuyên bố Ấn Độ nằm trong số các quốc gia hàng đầu bị các ứng dụng giả mạo nhắm đến để thu hút mọi người bằng lời hứa tiêm vắc xin.[137]

Bhopal, những người dân khu ổ chuột đã nhầm lẫn khi nghĩ rằng họ sẽ nhận được vắc-xin COVID-19 đã được phê duyệt, nhưng thay vào đó thực tế là một phần của thử nghiệm lâm sàng thử nghiệm đối với vắc-xin nội địa Covaxin. Chỉ 50% số người tham gia thử nghiệm được tiêm vắc-xin, số còn lại nhận được giả dược. Một người tham gia đã nói, "... Tôi không biết rằng có khả năng là bạn được tiêm nước cất." [138][139]

Phân biệt chủng tộc trong y tế

Một số người trong các nhóm người trải qua phân biệt chủng tộc trong y tế ít sẵn sàng tin tưởng các bác sĩ và y học hiện đại do các sự cố lịch sử có thật về thí nghiệm phi đạo đức của con ngườiviệc triệt sản không tự nguyện. Các ví dụ nổi tiếng bao gồm các cuộc thử nghiệm ma túy ở Châu Phi mà không có sự đồng ý rõ ràng, Nghiên cứu bệnh giang mai Tuskegee, chiết xuất các tế bào sinh lợi từ Henrietta Lacks, và các thí nghiệm phân biệt chủng tộc của Cornelius P. Rhoads ở Puerto Rico.

Để khắc phục kiểu thiếu tin tưởng này, các chuyên gia khuyến nghị nên bao gồm các mẫu đại diện của đa số và thiểu số trong các thử nghiệm thuốc, bao gồm cả các nhóm thiểu số trong thiết kế nghiên cứu, cẩn trọng về sự đồng ý và minh bạch về quá trình thiết kế và thử nghiệm thuốc.[140]

Tác động của việc giảm tiêm chủng

Ở một số quốc gia, theo sau việc giảm tiêm phòng một số loại vắc-xin là sự tăng tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm và số ca tử vong. Theo Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa kỳ, tiếp tục bao phủ vắc-xin ở mức độ cao là điều cần thiết để ngăn chặn sự hồi sinh của các bệnh mà đã gần như được loại bỏ.[141] Ho gà vẫn là một vấn đề sức khỏe làm đau đầu tại các nước đang phát triển, nơi không thực hiện tiêm chủng đại trà; Tổ chức Y tế Thế giới ước tính ho gà đã gây ra 294.000 ca tử vong vào năm 2002.[142]

Tham khảo

  1. ^ “Communicating science-based messages on vaccines”. Bulletin of the World Health Organization. 95 (10): 670–671. ngày 1 tháng 10 năm 2017. doi:10.2471/BLT.17.021017. ISSN 0042-9686. PMC 5689193. PMID 29147039.
  2. ^ “Why do some people oppose vaccination?”. Vox. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2018.
  3. ^ Ceccarelli, Leah. “Defending science: How the art of rhetoric can help”. The Conversation (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2018.
  4. ^ Services, U.S. Department of Health and Human. “Vaccines.gov”. www.vaccines.gov (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2018.
  5. ^ “Frequently Asked Questions (FAQ)”. Boston Children's Hospital. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2014.
  6. ^ Phadke, Varun K.; Bednarczyk, Robert A.; Salmon, Daniel A.; Omer, Saad B. (ngày 15 tháng 3 năm 2016). “Association Between Vaccine Refusal and Vaccine-Preventable Diseases in the United States”. JAMA. 315 (11): 1149–1158. doi:10.1001/jama.2016.1353. PMC 5007135. PMID 26978210.
  7. ^ Poland GA, Jacobson RM (ngày 13 tháng 1 năm 2011). “The Age-Old Struggle against the Antivaccinationists”. N Engl J Med. 364 (2): 97–99. doi:10.1056/NEJMp1010594. PMID 21226573.
  8. ^ Wallace A (ngày 19 tháng 10 năm 2009). “An epidemic of fear: how panicked parents skipping shots endangers us all”. Wired. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2009.
  9. ^ Poland G, Jacobson R (2001). “Understanding those who do not understand: a brief review of the anti-vaccine movement”. Vaccine. 19 (17–19): 2440–2445. doi:10.1016/S0264-410X(00)00469-2. PMID 11257375.
  10. ^ a b c Wolfe R, Sharp L (2002). “Anti-vaccinationists past and present”. BMJ. 325 (7361): 430–432. doi:10.1136/bmj.325.7361.430. PMC 1123944. PMID 12193361.
  11. ^ Chang, Julie (ngày 12 tháng 7 năm 2017). 'Civil liberties' at center of vaccination debate in Texas”. myStatesman. Austin American-Statesman.
  12. ^ Elliman, David; Bedford, Helen (ngày 23 tháng 3 năm 2014). “In Britain, Vaccinate With Persuasion, not Coercion”. The New York Times.
  13. ^ Christenson, Brith; Lundbergh, Per; Hedlund, Jonas; Örtqvist, Åke (ngày 31 tháng 3 năm 2001). “Effects of a large-scale intervention with influenza and 23-valent pneumococcal vaccines in adults aged 65 years or older: a prospective study”. The Lancet (bằng tiếng Anh). 357 (9261): 1008–1011. doi:10.1016/S0140-6736(00)04237-9. PMID 11293594.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  14. ^ Fenner F, Henderson DA, Arita I, Ježek Z, Ladnyi, ID (1988). Smallpox and its Eradication (PDF). Geneva: World Health Organization. ISBN 978-92-4-156110-5. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)CS1 maint: Multiple names: authors list (link) Fenner F, Henderson DA, Arita I, Ježek Z, Ladnyi, ID (1988). Smallpox and its Eradication (PDF). Geneva: World Health Organization. ISBN 978-92-4-156110-5. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  15. ^ Centers for Disease Control and Prevention (CDC) (2002). “Progress toward elimination of Haemophilus influenzae type b invasive disease among infants and children—United States, 1998–2000”. MMWR Morb Mortal Wkly Rep. 51 (11): 234–7. PMID 11925021.
  16. ^ Park A (ngày 21 tháng 5 năm 2008). “How safe are vaccines?”. Time.
  17. ^ a b “Some common misconceptions about vaccination and how to respond to them”. National Center for Immunization and Respiratory Diseases, Centers for Disease Control and Prevention. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2012.
  18. ^ Novella, Steven, et al. The Skeptics' Guide to the Universe: How to Know What's Really Real in a World Increasingly Full of Fake. Grand Central Publishing, 2018. p. 185.
  19. ^ Ernst E (2001). “Rise in popularity of complementary and alternative medicine: reasons and consequences for vaccination”. Vaccine. 20 (Suppl 1): S89–93. doi:10.1016/S0264-410X(01)00290-0. PMID 11587822.
  20. ^ Wane, Joanna. “The case for vaccination” (PDF). North & South. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2015.
  21. ^ Fine, P.; Eames, K.; Heymann, D. L. (22 tháng 3 năm 2011). 'Herd Immunity': A Rough Guide”. Clinical Infectious Diseases. 52 (7): 911–16. doi:10.1093/cid/cir007. PMID 21427399.
  22. ^ Heymann, D. L.; Aylward, R. B. (2006). “Mass Vaccination: When and Why”. Mass Vaccination: Global Aspects – Progress and Obstacles. Current Topics in Microbiology and Immunology. 304. tr. 1–16. doi:10.1007/3-540-36583-4_1. ISBN 978-3-540-29382-8. PMID 16989261.
  23. ^ Bester JC (tháng 9 năm 2017). “Measles Vaccination is Best for Children: The Argument for Relying on Herd Immunity Fails”. Journal of Bioethical Inquiry. 14 (3): 375–84. doi:10.1007/s11673-017-9799-4. PMID 28815434.
  24. ^ “Immunization”. CDC. 30 tháng 8 năm 2018.
  25. ^ Zhou F, Santoli J, Messonnier ML, Yusuf HR, Shefer A, Chu SY, Rodewald L, Harpaz R (tháng 12 năm 2005). “Economic evaluation of the 7-vaccine routine childhood immunization schedule in the United States, 2001”. Archives of Pediatrics & Adolescent Medicine. 159 (12): 1136–44. doi:10.1001/archpedi.159.12.1136. PMID 16330737.
  26. ^ Fine PE, Clarkson JA (tháng 12 năm 1986). “Individual versus public priorities in the determination of optimal vaccination policies”. American Journal of Epidemiology. 124 (6): 1012–20. doi:10.1093/oxfordjournals.aje.a114471. PMID 3096132.
  27. ^ Buttenheim AM, Asch DA (tháng 12 năm 2013). “Making vaccine refusal less of a free ride”. Human Vaccines & Immunotherapeutics. 9 (12): 2674–75. doi:10.4161/hv.26676. PMC 4162060. PMID 24088616.
  28. ^ Reich, Jennifer (13 tháng 6 năm 2019). “I've talked to dozens of parents about why they don't vaccinate. Here's what they told me”. Vox. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2019.
  29. ^ Wolfe RM, Sharp LK (tháng 8 năm 2002). “Anti-vaccinationists past and present”. BMJ. 325 (7361): 430–32. doi:10.1136/bmj.325.7361.430. PMC 1123944. PMID 12193361.
  30. ^ The Lancet Infectious Diseases (tháng 4 năm 2007). “Tackling negative perceptions towards vaccination”. The Lancet Infectious Diseases. 7 (4): 235. doi:10.1016/S1473-3099(07)70057-9. PMID 17376373.
  31. ^ “Possible Side-effects from Vaccines”. Centers for Disease Control and Prevention. ngày 26 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2014.
  32. ^ Chen, Robert T.; Hibbs, Beth (tháng 7 năm 1998). “Vaccine Safety: Current and Future Challenges”. Pediatric Annals. 27 (7). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2014.
  33. ^ a b Bonhoeffer J, Heininger U (2007). “Adverse events following immunization: perception and evidence” (PDF). Current Opinion in Infectious Diseases. 20 (3): 237–246. doi:10.1097/QCO.0b013e32811ebfb0. PMID 17471032.
  34. ^ Mooney C (tháng 6 năm 2009). “Why does the vaccine/autism controversy live on?”. Discover.
  35. ^ a b c d Jacobson, RM; St Sauver, JL; Finney Rutten, LJ (tháng 11 năm 2015). “Vaccine Hesitancy”. Mayo Clinic Proceedings. 90 (11): 1562–68. doi:10.1016/j.mayocp.2015.09.006. PMID 26541249.
  36. ^ Marshall, GS (2013). “Roots of vaccine hesitancy”. S D Med. Spec no: 52–57. PMID 23444592.
  37. ^ McClure, CC; Cataldi, JR; O'Leary, ST (tháng 8 năm 2017). “Vaccine Hesitancy: Where We Are and Where We Are Going”. Clinical Therapeutics. 39 (8): 1550–62. doi:10.1016/j.clinthera.2017.07.003. PMID 28774498.
  38. ^ Boseley, Sarah (ngày 2 tháng 2 năm 2010). “Lancet retracts 'utterly false' MMR paper”. The Guardian. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2010.
  39. ^ Leask J, Chapman S, Cooper Robbins SC. 'All manner of ills': The features of serious diseases attributed to vaccination. Vaccine. 2009. doi:10.1016/j.vaccine.2009.10.042. PMID 19879997.
  40. ^ Goldacre, Ben (2009). Bad Science. London: Fourth Estate. tr. 292–294. ISBN 9780007284870.
  41. ^ Taylor, Luke E.; Swerdfeger, Amy L.; Eslick, Guy D. (17 tháng 6 năm 2014). “Vaccines are not associated with autism: an evidence-based meta-analysis of case-control and cohort studies”. Vaccine. 32 (29): 3623–29. doi:10.1016/j.vaccine.2014.04.085. ISSN 1873-2518. PMID 24814559.
  42. ^ Smith, IM; MacDonald, NE (tháng 8 năm 2017). “Countering evidence denial and the promotion of pseudoscience in autism spectrum disorder”. Autism Research (Review). 10 (8): 1334–37. doi:10.1002/aur.1810. PMID 28544626.
  43. ^ Bonhoeffer, Jan; Heininger, Ulrich (tháng 6 năm 2007). “Adverse events following immunization: perception and evidence”. Current Opinion in Infectious Diseases. 20 (3): 237–46. doi:10.1097/QCO.0b013e32811ebfb0. PMID 17471032.
  44. ^ Boseley, Sarah (2 tháng 2 năm 2010). “Lancet retracts 'utterly false' MMR paper”. The Guardian. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2010.
  45. ^ Taylor LE, Swerdfeger AL, Eslick GD (tháng 6 năm 2014). “Vaccines are not associated with autism: an evidence-based meta-analysis of case-control and cohort studies”. Vaccine. 32 (29): 3623–29. doi:10.1016/j.vaccine.2014.04.085. PMID 24814559.
  46. ^ “Vaccines Do Not Cause Autism Concerns”. Centers for Disease Control and Prevention (bằng tiếng Anh). 12 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2019.
  47. ^ “How autism myths came to fuel anti-vaccination movements”. Popular Science (bằng tiếng Anh). tháng 2 năm 2019.
  48. ^ Foster, Craig A.; Ortiz, Sarenna M. (2017). “Vaccines, Autism, and the Promotion of Irrelevant Research: A Science-Pseudoscience Analysis”. Skeptical Inquirer. 41 (3): 44–48. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2018.
  49. ^ Baker JP (tháng 2 năm 2008). “Mercury, vaccines, and autism: one controversy, three histories”. American Journal of Public Health. 98 (2): 244–53. doi:10.2105/AJPH.2007.113159. PMC 2376879. PMID 18172138.
  50. ^ “Thimerosal in vaccines”. Center for Biologics Evaluation and Research, U.S. Food and Drug Administration. 3 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2008.
  51. ^ a b Center for Biologics Evaluation and Research (5 tháng 4 năm 2019). “Thimerosal and Vaccines”. FDA. fda.gov.
  52. ^ a b Offit PA (tháng 9 năm 2007). “Thimerosal and vaccines – a cautionary tale”. The New England Journal of Medicine. 357 (13): 1278–79. doi:10.1056/NEJMp078187. PMID 17898096.
  53. ^ Bose-O'Reilly S, McCarty KM, Steckling N, Lettmeier B (tháng 9 năm 2010). “Mercury exposure and children's health”. Current Problems in Pediatric and Adolescent Health Care. 40 (8): 186–215. doi:10.1016/j.cppeds.2010.07.002. PMC 3096006. PMID 20816346.
  54. ^ Gerber JS, Offit PA (tháng 2 năm 2009). “Vaccines and autism: a tale of shifting hypotheses”. Clinical Infectious Diseases. 48 (4): 456–61. doi:10.1086/596476. PMC 2908388. PMID 19128068. Tóm lược dễ hiểuIDSA (30 tháng 1 năm 2009).
  55. ^ Doja A, Roberts W (tháng 11 năm 2006). “Immunizations and autism: a review of the literature”. The Canadian Journal of Neurological Sciences. 33 (4): 341–46. doi:10.1017/s031716710000528x. PMID 17168158.
  56. ^ Spencer, JP; Trondsen Pawlowski, RH; Thomas, S (tháng 6 năm 2017). “Vaccine Adverse Events: Separating Myth from Reality”. American Family Physician. 95 (12): 786–94. PMID 28671426.
  57. ^ Sugarman SD (tháng 9 năm 2007). “Cases in vaccine court – legal battles over vaccines and autism”. The New England Journal of Medicine. 357 (13): 1275–77. doi:10.1056/NEJMp078168. PMID 17898095.
  58. ^ Immunization Safety Review Committee (2004). Immunization Safety Review: Vaccines and Autism. The National Academies Press. doi:10.17226/10997. ISBN 978-0-309-09237-1. PMID 20669467.
  59. ^ a b c “Thimerosal and Vaccines”. fda.gov. U.S. Food and Drug Administration. 5 tháng 4 năm 2019.
  60. ^ Wakefield AJ, Murch SH, Anthony A, Linnell J, Casson DM, Malik M, Berelowitz M, Dhillon AP, Thomson MA, Harvey P, Valentine A, Davies SE, Walker-Smith JA (tháng 2 năm 1998). “Ileal-lymphoid-nodular hyperplasia, non-specific colitis, and pervasive developmental disorder in children”. Lancet. 351 (9103): 637–41. doi:10.1016/S0140-6736(97)11096-0. PMID 9500320. (Đã rút lại. Nếu đây là trích dẫn cố ý tới bài viết đã rút lại, đề nghị thay thế {{Retracted}} bằng {{Retracted|intentional=yes}}.)
  61. ^ National Health Service (2015). “MMR vaccine”. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  62. ^ Deer B (22 tháng 2 năm 2004). “Revealed: MMR research scandal”. The Sunday Times. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2007.
  63. ^ Horton R (tháng 3 năm 2004). “The lessons of MMR”. Lancet. 363 (9411): 747–49. doi:10.1016/S0140-6736(04)15714-0. PMID 15016482.
  64. ^ “MMR scare doctor 'paid children'. BBC News. 16 tháng 7 năm 2007.
  65. ^ “Doctors issue plea over MMR jab”. BBC News. 26 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2007.
  66. ^ Alazraki M (12 tháng 1 năm 2011). “The Autism Vaccine Fraud: Dr. Wakefield's Costly Lie to Society”. DailyFinance, AOL Money & Finance. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2011.
  67. ^ Murch SH, Anthony A, Casson DH, Malik M, Berelowitz M, Dhillon AP, Thomson MA, Valentine A, Davies SE, Walker-Smith JA (tháng 3 năm 2004). “Retraction of an interpretation”. Lancet. 363 (9411): 750. doi:10.1016/S0140-6736(04)15715-2. PMID 15016483.
  68. ^ The Editors Of The Lancet (tháng 2 năm 2010). “Retraction – Ileal-lymphoid-nodular hyperplasia, non-specific colitis, and pervasive developmental disorder in children”. Lancet. 375 (9713): 445. doi:10.1016/S0140-6736(10)60175-4. PMID 20137807. Tóm lược dễ hiểuBBC News (2 tháng 2 năm 2010).
  69. ^ “General Medical Council, Fitness to Practise Panel Hearing, 24 May 2010, Andrew Wakefield, Determination of Serious Professional Misconduct” (PDF). General Medical Council. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2011.
  70. ^ Meikle, James; Boseley, Sarah (24 tháng 5 năm 2010). “MMR row doctor Andrew Wakefield struck off register”. The Guardian. London. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
  71. ^ Immunization Safety Review Committee (2004). Immunization Safety Review: Vaccines and Autism. The National Academies Press. doi:10.17226/10997. ISBN 978-0-309-09237-1. PMID 20669467.
  72. ^ “Concerns about autism”. Centers for Disease Control and Prevention. 15 tháng 1 năm 2010.
  73. ^ “MMR The facts”. United Kingdom National Health Service. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2007.
  74. ^ “Are Vaccines Safe?”. health.gov.au. Australia Department of Health.
  75. ^ Demicheli V, Rivetti A, Debalini MG, Di Pietrantonj C (tháng 2 năm 2012). Demicheli V (biên tập). “Vaccines for measles, mumps and rubella in children”. The Cochrane Database of Systematic Reviews. 2 (2): CD004407. doi:10.1002/14651858.CD004407.pub3. PMC 6458016. PMID 22336803.
  76. ^ DeStefano, Frank; Shimabukuro, Tom T. (15 tháng 4 năm 2019). “The MMR Vaccine and Autism”. Annual Review of Virology. 6 (1): 585–600. doi:10.1146/annurev-virology-092818-015515. ISSN 2327-0578. PMC 6768751. PMID 30986133.
  77. ^ Deer B (8 tháng 2 năm 2009). “MMR doctor Andrew Wakefield fixed data on autism”. Sunday Times. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2009.
  78. ^ Deer B (tháng 1 năm 2011). “How the case against the MMR vaccine was fixed”. BMJ. 342: c5347. doi:10.1136/bmj.c5347. PMID 21209059.
  79. ^ Godlee F, Smith J, Marcovitch H (tháng 1 năm 2011). “Wakefield's article linking MMR vaccine and autism was fraudulent”. BMJ. 342: c7452. doi:10.1136/bmj.c7452. PMID 21209060.
  80. ^ Vaccine court and autism:
  81. ^ a b Hilton S, Petticrew M, Hunt K (tháng 5 năm 2006). “'Combined vaccines are like a sudden onslaught to the body's immune system': parental concerns about vaccine 'overload' and 'immune-vulnerability'”. Vaccine. 24 (20): 4321–27. doi:10.1016/j.vaccine.2006.03.003. PMID 16581162.
  82. ^ Gerber JS, Offit PA (tháng 2 năm 2009). “Vaccines and autism: a tale of shifting hypotheses”. Clinical Infectious Diseases. 48 (4): 456–61. doi:10.1086/596476. PMC 2908388. PMID 19128068. Tóm lược dễ hiểuIDSA (30 tháng 1 năm 2009).
  83. ^ Hurst L (30 tháng 10 năm 2009). “Vaccine phobia runs deep”. Toronto Star. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2009.
  84. ^ Heininger U (tháng 9 năm 2006). “An internet-based survey on parental attitudes towards immunization”. Vaccine. 24 (37–39): 6351–55. doi:10.1016/j.vaccine.2006.05.029. PMID 16784799.
  85. ^ a b c d Gerber JS, Offit PA (tháng 2 năm 2009). “Vaccines and autism: a tale of shifting hypotheses”. Clinical Infectious Diseases. 48 (4): 456–61. doi:10.1086/596476. PMC 2908388. PMID 19128068. Tóm lược dễ hiểuIDSA (30 tháng 1 năm 2009).
  86. ^ Willingham, Emily (29 tháng 3 năm 2013). “Vaccines Not Linked To Autism. Again”. Forbes. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2013.
  87. ^ DeStefano F, Price CS, Weintraub ES (tháng 8 năm 2013). “Increasing exposure to antibody-stimulating proteins and polysaccharides in vaccines is not associated with risk of autism” (PDF). The Journal of Pediatrics. 163 (2): 561–77. CiteSeerX 10.1.1.371.2592. doi:10.1016/j.jpeds.2013.02.001. PMID 23545349.
  88. ^ Immune challenges:
  89. ^ Vaccine burden:
  90. ^ Bonhoeffer, Jan; Heininger, Ulrich (tháng 6 năm 2007). “Adverse events following immunization: perception and evidence”. Current Opinion in Infectious Diseases. 20 (3): 237–46. doi:10.1097/QCO.0b013e32811ebfb0. PMID 17471032.
  91. ^ Gregson AL, Edelman R (tháng 11 năm 2003). “Does antigenic overload exist? The role of multiple immunizations in infants”. Immunology and Allergy Clinics of North America. 23 (4): 649–64. doi:10.1016/S0889-8561(03)00097-3. PMID 14753385.
  92. ^ Offit, Paul A.; Hackett, Charles J. (2003). “Addressing Parents' Concerns: Do Vaccines Cause Allergic or Autoimmune Diseases?”. Pediatrics. 111 (3): 653–59. doi:10.1542/peds.111.3.653. PMID 12612250.
  93. ^ Schneeweiss B, Pfleiderer M, Keller-Stanislawski B (tháng 8 năm 2008). “Vaccination safety update”. Deutsches Ärzteblatt International. 105 (34–35): 590–95. doi:10.3238/arztebl.2008.0590. PMC 2680557. PMID 19471677.
  94. ^ Deen JL, Clemens JD (tháng 11 năm 2006). “Issues in the design and implementation of vaccine trials in less developed countries”. Nature Reviews. Drug Discovery. 5 (11): 932–40. doi:10.1038/nrd2159. PMID 17080029.
  95. ^ Gerber JS, Offit PA (tháng 2 năm 2009). “Vaccines and autism: a tale of shifting hypotheses”. Clinical Infectious Diseases. 48 (4): 456–61. doi:10.1086/596476. PMC 2908388. PMID 19128068. Tóm lược dễ hiểuIDSA (30 tháng 1 năm 2009).
  96. ^ Fineberg AM, Ellman LM (tháng 5 năm 2013). “Inflammatory cytokines and neurological and neurocognitive alterations in the course of schizophrenia”. Biological Psychiatry. 73 (10): 951–66. doi:10.1016/j.biopsych.2013.01.001. PMC 3641168. PMID 23414821.
  97. ^ Skowronski DM, De Serres G (tháng 7 năm 2009). “Is routine influenza immunization warranted in early pregnancy?”. Vaccine. 27 (35): 4754–70. doi:10.1016/j.vaccine.2009.03.079. PMID 19515466.
  98. ^ Fiore AE, Shay DK, Haber P, Iskander JK, Uyeki TM, Mootrey G, Bresee JS, Cox NJ (tháng 7 năm 2007). “Prevention and control of influenza. Recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices (ACIP), 2007”. MMWR. Recommendations and Reports. 56 (RR-6): 1–54. PMID 17625497.
  99. ^ Fiore AE, Shay DK, Haber P, Iskander JK, Uyeki TM, Mootrey G, Bresee JS, Cox NJ (tháng 7 năm 2007). “Prevention and control of influenza. Recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices (ACIP), 2007”. MMWR. Recommendations and Reports. 56 (RR-6): 1–54. PMID 17625497.
  100. ^ a b c Principi, N; Esposito, S (tháng 9 năm 2018). “Aluminum in vaccines: Does it create a safety problem?”. Vaccine. 36 (39): 5825–31. doi:10.1016/j.vaccine.2018.08.036. PMID 30139653.
  101. ^ a b Baylor NW, Egan W, Richman P (tháng 5 năm 2002). “Aluminum salts in vaccines – US perspective”. Vaccine. 20 (Suppl 3): S18–23. doi:10.1016/S0264-410X(02)00166-4. PMID 12184360.
  102. ^ Leslie M (tháng 7 năm 2013). “Solution to vaccine mystery starts to crystallize”. Science. 341 (6141): 26–27. Bibcode:2013Sci...341...26L. doi:10.1126/science.341.6141.26. PMID 23828925.
  103. ^ a b François G, Duclos P, Margolis H, Lavanchy D, Siegrist CA, Meheus A, Lambert PH, Emiroğlu N, Badur S, Van Damme P (tháng 11 năm 2005). “Vaccine safety controversies and the future of vaccination programs”. The Pediatric Infectious Disease Journal. 24 (11): 953–61. doi:10.1097/01.inf.0000183853.16113.a6. PMID 16282928. Đã bỏ qua tham số không rõ |displayauthors= (gợi ý |display-authors=) (trợ giúp)
  104. ^ Smith, MJ (tháng 11 năm 2015). “Promoting Vaccine Confidence”. Infectious Disease Clinics of North America (Review). 29 (4): 759–69. doi:10.1016/j.idc.2015.07.004. PMID 26337737.
  105. ^ a b “Vaccine Ingredients”. Vaccine Knowledge Project. Centre for Clinical Vaccinology and Tropical Medicine, Churchill Hospital, University of Oxford.
  106. ^ a b c d e “Common Ingredients Used in U.S. Licensed Vaccines”. fda.gov. U.S. Food and Drug Administration. 19 tháng 4 năm 2019.
  107. ^ “Vaccine Ingredients-Formaldehyde”. chop.edu/. Children's Hospital of Philadelphia. 6 tháng 11 năm 2014.
  108. ^ “Vaccine Ingredients”. vaccines.gov/. U.S. Department of Health and Human Services.
  109. ^ a b c d e Moon, RY; Task Force on Sudden Infant Death Syndrome (tháng 11 năm 2016). “SIDS and Other Sleep-Related Infant Deaths: Evidence Base for 2016 Updated Recommendations for a Safe Infant Sleeping Environment”. Pediatrics. 138 (5): e20162940. doi:10.1542/peds.2016-2940. PMID 27940805.
  110. ^ a b Task Force on Sudden Infant Death Syndrome (tháng 11 năm 2016). “SIDS and Other Sleep-Related Infant Deaths: Updated 2016 Recommendations for a Safe Infant Sleeping Environment”. Pediatrics. 138 (5): e20162938. doi:10.1542/peds.2016-2938. PMID 27940804. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
  111. ^ Institute of Medicine (US) Immunization Safety Review Committee; Stratton, K; Almario, DA; Wizemann, TM; McCormick, MC (2003). Immunization Safety Review: Vaccinations and Sudden Unexpected Death in Infancy (PDF). Washington D.C.: National Academies Press (US). PMID 25057654. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
  112. ^ Vennemann, MM; Höffgen, M; Bajanowski, T; Hense, HW; Mitchell, EA (tháng 6 năm 2007). “Do immunisations reduce the risk for SIDS? A meta-analysis”. Vaccine. 25 (26): 4875–79. doi:10.1016/j.vaccine.2007.02.077. PMID 17400342.
  113. ^ a b c d e Hausman, Bernice L. (2019). Anti/Vax: Reframing the Vaccination Controversy. Cornell University Press. tr. 28, 39–42. ISBN 9781501735639.
  114. ^ Chatterjee, Archana (2013). Vaccinophobia and Vaccine Controversies of the 21st Century. Springer Science & Business Media. tr. 8. ISBN 9781461474388.
  115. ^ Ward JK (tháng 6 năm 2016). “Rethinking the antivaccine movement concept: A case study of public criticism of the swine flu vaccine's safety in France”. Social Science & Medicine. 159: 48–57. doi:10.1016/j.socscimed.2016.05.003. PMID 27173740.
  116. ^ Chatterjee, Archana (2013). Vaccinophobia and Vaccine Controversies of the 21st Century. Springer Science & Business Media. tr. 325. ISBN 9781461474388.
  117. ^ Marshall, GS (2013). “Roots of vaccine hesitancy”. S D Med. Spec no: 52–57. PMID 23444592.
  118. ^ Schneeweiss B, Pfleiderer M, Keller-Stanislawski B (tháng 8 năm 2008). “Vaccination safety update”. Deutsches Ärzteblatt International. 105 (34–35): 590–95. doi:10.3238/arztebl.2008.0590. PMC 2680557. PMID 19471677.
  119. ^ Mailand, MT; Frederiksen, JL (tháng 6 năm 2017). “Vaccines and multiple sclerosis: a systematic review”. Journal of Neurology. 264 (6): 1035–50. doi:10.1007/s00415-016-8263-4. PMID 27604618.
  120. ^ Rewers, M; Ludvigsson, J (tháng 6 năm 2016). “Environmental risk factors for type 1 diabetes”. Lancet. 387 (10035): 2340–48. doi:10.1016/S0140-6736(16)30507-4. PMC 5571740. PMID 27302273.
  121. ^ Offit, Paul A.; Hackett, Charles J. (2003). “Addressing Parents' Concerns: Do Vaccines Cause Allergic or Autoimmune Diseases?”. Pediatrics. 111 (3): 653–59. doi:10.1542/peds.111.3.653. PMID 12612250.
  122. ^ Elwood, JM; Ameratunga, R (tháng 9 năm 2018). “Autoimmune diseases after hepatitis B immunization in adults: Literature review and meta-analysis, with reference to 'autoimmune/autoinflammatory syndrome induced by adjuvants' (ASIA)”. Vaccine (Systematic Review & Meta-Analysis). 36 (38): 5796–802. doi:10.1016/j.vaccine.2018.07.074. PMID 30100071.
  123. ^ Edwards, Kathryn M.; Hackell, Jesse M. (29 tháng 8 năm 2016). “Countering Vaccine Hesitancy”. Pediatrics. 138 (3): e20162146. doi:10.1542/peds.2016-2146. PMID 27573088. Tóm lược dễ hiểuAAP News (29 tháng 8 năm 2016).
  124. ^ Smith, MJ (tháng 11 năm 2015). “Promoting Vaccine Confidence”. Infectious Disease Clinics of North America (Review). 29 (4): 759–69. doi:10.1016/j.idc.2015.07.004. PMID 26337737.
  125. ^ Daniel Freeman (16 tháng 6 năm 2021). “Needle phobia could be the cause of 10% of COVID vaccine hesitancy in the UK – new research”. The Conversation.
  126. ^ Daniel Freeman; Bao Sheng Loe; Ly-Mee Yu; Jason Freeman; Andrew Chadwick; Cristian Vaccari (16 tháng 5 năm 2021). “Effects of different types of written vaccination information on COVID-19 vaccine hesitancy in the UK (OCEANS-III): a single-blind, parallel-group, randomised controlled trial”. The Lancet. doi:10.1016/S2468-2667(21)00096-7.
  127. ^ a b Amy Baxter m (11 tháng 6 năm 2021). “Over half of adults unvaccinated for COVID-19 fear needles – here's what's proven to help”. The Conversation.
  128. ^ Holly Seale; Jessica Kaufman (8 tháng 4 năm 2021). “Pictures of COVID injections can scare the pants off people with needle phobias. Use these instead”. The Conversation.
  129. ^ Amy Baxter m (11 tháng 6 năm 2021). “Over half of adults unvaccinated for COVID-19 fear needles – here's what's proven to help”. The Conversation.
  130. ^ Vasso Apostolopoulos; Maja Husaric; Maximilian de Courten (30 tháng 9 năm 2020). “A COVID-19 vaccine may come without a needle, the latest vaccine to protect without jabbing”. The Conversation.
  131. ^ a b Kennedy, Jonathan (tháng 10 năm 2017). “How Drone Strikes and a Fake Vaccination Program Have Inhibited Polio Eradication in Pakistan: An Analysis of National Level Data”. International Journal of Health Services: Planning, Administration, Evaluation. 47 (4): 807–25. doi:10.1177/0020731417722888. ISSN 1541-4469. PMID 28764582.
  132. ^ Jr, Donald G. McNeil (9 tháng 7 năm 2012). “C.I.A. Vaccine Ruse May Have Harmed the War on Polio”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2020.
  133. ^ “Pakistan Raises Its Guard After 2 Polio Vaccinators Are Gunned Down”. NPR.org.
  134. ^ “Seven shot dead in Pakistan polio attack”. BBC News. 20 tháng 4 năm 2016 – qua bbc.com.
  135. ^ Kumar, Hari (4 tháng 7 năm 2021). “Indian police investigate whether scammers gave thousands of shots of salt water instead of vaccine”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2021.
  136. ^ “Thousands Given Fake Vaccines Through Scam In India”. NPR.org (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2021.
  137. ^ “India: Fake vaccines undermine fight against COVID | DW | 01.07.2021”. Deutsche Welle (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2021.
  138. ^ CNN, Esha Mitra and Julia Hollingsworth. “More than a dozen slum residents in an Indian city say they didn't know they were part of a clinical vaccine trial”. CNN. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2021.
  139. ^ Bhuyan, Anoo (14 tháng 1 năm 2021). “How Covaxin Trial Participants in Bhopal Were Misled”. The Wire Science (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2021.
  140. ^ Dezimey Kum (28 tháng 12 năm 2020). “Fueled by a History of Mistreatment, Black Americans Distrust the New COVID-19 Vaccines”.
  141. ^ “What would happen if we stopped vaccinations?”. Centers for Disease Control and Prevention. ngày 12 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2008.
  142. ^ Centers for Disease Control and Prevention (2007). “Pertussis”. Trong Atkinson W, Hamborsky J, McIntyre L, Wolfe S (biên tập). Epidemiology and Prevention of Vaccine-Preventable Diseases. Washington, DC: Public Health Foundation. ISBN 978-0-01-706605-3. Đã bỏ qua tham số không rõ |chapterurl= (trợ giúp)

Đọc thêm

Liên kết ngoài