Aphis glycines

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Rệp đậu tương
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Arthropoda
Lớp (class)Insecta
Bộ (ordo)Hemiptera
Họ (familia)Aphididae
Chi (genus)Aphis
Loài (species)A. glycines
Danh pháp hai phần
Aphis glycines
Matsumura

Rệp đậu tương (Aphis glycines) là một loài côn trùng trong họ Rệp vừng (Aphididae), bộ Cánh nửa. Chúng phân bố ở Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Indonesia, Malaysia, Nga, Nhật Bản, Philippines, Thái Lan, Trung Quốc, ÚcViệt Nam. Đây là loài gây hại đậu nành (Glycine max (L.) Merr.) là loài ngoại laiBắc Mỹ.[1] Đây là loài bản địa châu Á.[2] Loài này đã được mô tả là loài gây hại đậu nành ở Trung Quốc[3] và là một loài gây hại không thường xuyên cho đậu nành ở Indonesia,[4] Nhật Bản,[5] Korea,[6] Malaysia,[2] Philippines,[7]Thái Lan.[8] Rệp vừng đậu tương lần đầu tiên được ghi nhận ở Bắc Mỹ ở Wisconsin vào tháng 7 năm 2000.[9] Ragsdale et al. (2004) lưu ý rằng rệp đậu tương có thể đến Bắc Mỹ sớm hơn năm 2000, nhưng vẫn không bị phát hiện trong một khoảng thời gian.[1] Venette and Ragsdale (2004) cho rằng Nhật Bản có thể là điểm xuất phát cho cuộc xâm lược của rệp đậu tương ở Bắc Mỹ.[10] Đến năm 2003, rệp đậu tương đã được ghi nhận ở Delaware, Georgia, Illinois, Indiana, Iowa, Kansas, Kentucky, Michigan, Minnesota, Mississippi, Missouri, Nebraska, New York, North Dakota, Ohio, Pennsylvania, South Dakota, Virginia, West Virginia, và Wisconsin.[10] Cùng với nhau, các bang này chiếm 89% 63.600.000 mẫu Anh (257.000 km2) đậu tương được trồng ở Hoa Kỳ vào năm 2007.[11]

Chu kỳ sống[sửa | sửa mã nguồn]

Rệp vừng đậu tương sở hữu chu kỳ sống đơn bội dị hợp, có nghĩa là loài côn trùng này thay thế vật chủ và trải qua quá trình sinh sản hữu tính trong ít nhất một phần của vòng đời. Rệp đậu tương trải qua mùa đông làm trứng trên vật chủ chính của chúng, cây hắc mai (Rhamnus spp.). Trứng có thể nằm gần chồi hoặc trong kẽ hở của cành. Với điểm siêu lạnh trung bình là −34 °C (−29 °F), trứng thích nghi tốt để tồn tại trong mùa đông lạnh giá.

Trong hai nghiên cứu, số lượng trứng quá đông có mối tương quan thuận chặt chẽ với mức độ nghiêm trọng của các đợt bùng phát rệp đậu tương vào mùa xuân năm sau.

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Rệp có màu vàng xanh nhạt. Đôi ống bụng màu đen, dài 0,22-0,24mm. Bộ phận đuôi (cauda) có màu vàng với 8-10 lông nhỏ, dài khoảng 0,19-0,22mm. Cơ thể dài 1,5-2,0mm. Cũng tương tự như các loài rệp muội khác, Chúng có 2 dạng: Có cánh và không cánh. Cá thể trưởng thành có cánh có đầu và ngực màu đen. Rệp non đẫy sức của trưởng thành có cánh trên ngực có mầm cánh.

Gây hại[sửa | sửa mã nguồn]

Chúng là loài gây hại, và ký chủ trên đậu tương (đậu nành) Glycine max, Glycine wightii và Centotheca lappacea. Tại Trung Quốc và Nhật Bản, rệp hiện diện chủ yếu trên các loài thực vật thuộc giống đậu Glycine. Loài này còn được tìm thấy trên Rhamnus (họ Rhamnaceae) và trên cây Puerria và Desmodium. Tại Úc, Aphis glycine chỉ gây hại trên đậu nành. Sự hiện diện của nấm muội đen và quần thể rệp trên lá, hoa và trái non. Khi mật độ rệp cao, chồi lá sẽ bị biến dạng, lá vàng, cây phát triển kém.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b D. W. Ragsdale, D. J. Voegtlin & R. J. O’Neil (2004). “Soybean aphid biology in North America”. Annals of the Entomological Society of America. 97 (2): 204–208. doi:10.1603/0013-8746(2004)097[0204:SABINA]2.0.CO;2.
  2. ^ a b R. L. Blackman & V. F. Eastop (2000). Aphids on the world's crops (ấn bản 2). New York: Wiley. tr. an identification and information guide. ISBN 978-0-471-85191-2.
  3. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Wang et al. 1962
  4. ^ M. Iwaki (1979). “Virus and mycoplasma diseases of leguminous crops in Indonesia”. Review of Plant Protection Research. 12: 88–97.
  5. ^ S. Takahashi M. Inaizumi & K. Kawakami (1993). “Life cycle of the soybean aphid, Aphis glycines Matsumura, in Japan”. Japanese Journal of Applied Entomology and Zoology. 37 (4): 207–212. doi:10.1303/jjaez.37.207. ISSN 0021-4914.
  6. ^ K. H. Chung, S. H. Kwon & Y. I. Lee (1980). “Studies on the density of soybean aphids in different cultivars, planting date and spacings”. Korean Journal of Crop Science. 25: 35–40.
  7. ^ G. M. Quimio & V. J. Calilung (1993). “Survey of flying viruliferous aphid species and population build up of Aphis glycines Matsumura in soybean fields”. Philippine Entomologist. 9: 52–100.
  8. ^ W. H. Paik (1963). Aphids of Korea. Seoul: Publishing Center of Seoul National University.
  9. ^ R. J. Alleman, C. Grau & D. B. Hogg (2002). “Soybean aphid host range and virus transmission efficiency” (PDF). In Proc. Wisconsin Fertilizer Aglime Pest Management Conf. University of Wisconsin Extension. Madison, Wisconsin. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2020.
  10. ^ a b R, C. Venette & D. W. Ragsdale (2004). “Assessing the invasion by soybean aphid (Homoptera Aphididae)”. Annals of the Entomological Society of America. 97 (2): 219–226. doi:10.1603/0013-8746(2004)097[0219:ATIBSA]2.0.CO;2.
  11. ^ National Agricultural Statistics Service (2008). “Crop production 2007 summary” (PDF). Washington, DC: United States Department of Agriculture. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  • R, C. Venette & D. W. Ragsdale (2004). "Assessing the invasion by soybean aphid (Homoptera Aphididae)". Annals of the Entomological Society of America. 97 (2): 219–226. doi:10.1603/0013-8746(2004)097[0219:ATIBSA]2.0.CO;2.
  • G. M. Quimio & V. J. Calilung (1993). "Survey of flying viruliferous aphid species and population build up of Aphis glycines Matsumura in soybean fields". Philippine Entomologist. 9: 52–100.