Centropyge colini

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Centropyge colini
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Pomacanthidae
Chi (genus)Centropyge
Loài (species)C. colini
Danh pháp hai phần
Centropyge colini
Smith-Vaniz & Randall, 1974

Centropyge colini là một loài cá biển thuộc chi Centropyge trong họ Cá bướm gai. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1974.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của loài được đặt theo tên của Patrick L. Colin, người đã thu thập mẫu định danh của loài cá này và Centropyge joculator[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

C. colini có phạm vi phân bố chủ yếu tại vùng biển thuộc các đảo quốc, quần đảo ở Đông Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, bao gồm quần đảo Cocos (Keeling) (Úc); PhilippinesIndonesia; Palau; Guam; Chuuk (Liên bang Micronesia); quần đảo Marshall; Papua New Guinea; quần đảo Solomon; Vanuatu; FijiNouvelle-Calédonie[1].

C. colini sống gần các rạn san hô viền bờ, nơi có nhiều hang hốc và kẽ đá, độ sâu trong khoảng từ 20 đến 100 m[1].

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

C. colini có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là 9 cm[3]. Màu sắc chủ yếu của C. colini là màu vàng chanh, ngoại trừ một vùng màu xanh lam tím từ đỉnh đầu lan rộng ra lưng và hầu hết phần vây lưng. Quanh mắt có một vòng màu xanh tím[4].

Số gai ở vây lưng: 14; Số tia vây ở vây lưng: 16–17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 17[3].

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn chủ yếu của C. colinitảo.

Chúng thường sống thành từng nhóm nhỏ, gồm một con đực trưởng thành thống trị những con cá cái trong hậu cung của nó (một nhóm có từ 3 đến 7 cá thể)[3]. Nếu cá đực thống trị biến mất, con cá cái lớn nhất đàn có khả năng chuyển đổi giới tình thành cá đực, một hành vi thường thấy ở nhiều loài Centropyge khác[4].

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

C. colini hầu như không được thu thập cho việc buôn bán cá cảnh, một phần là vì chúng xuất hiện ở bên ngoài phạm vi các khu vực thu thập thông thường[1].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d R. Pyle; R. Myers (2010). Centropyge colini. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T165838A6145523. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T165838A6145523.en. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, C.; Lazara, K. J. (2021). “Order ACANTHURIFORMES (part 1)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2021.
  3. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Centropyge colini trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2021.
  4. ^ a b Dianne J. Bray. “Cocos-Keeling Angelfish, Centropyge colini Smith-Vaniz & Randall 1974”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2021.