Courage (album của Celine Dion)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Courage
Một bức ảnh có hình một người phụ nữ mặc một chiếc váy, đứng trước một ngọn lửa cháy rực
Album phòng thu của Celine Dion
Phát hành15 tháng 11 năm 2019 (2019-11-15)
Thu âm2017–2019
Thể loại
Thời lượng57:00
Hãng đĩaColumbia
Sản xuất
Thứ tự album của Celine Dion
The Best So Far... 2018 Tour Edition
(2018)
Courage
(2019)
Đĩa đơn từ Courage
  1. "Imperfections"
    Phát hành: 18 tháng 9 năm 2019
  2. "Lying Down"
    Phát hành: 18 tháng 9 năm 2019
  3. "Courage"
    Phát hành: 18 tháng 9 năm 2019
  4. "Soul"
    Phát hành: 24 tháng 1 năm 2020
  5. "Change My Mind"
    Phát hành: 15 tháng 2 năm 2020

Couragealbum phòng thu tiếng Anh thứ 12 của nữ ca sĩ người Canada Celine Dion, được Columbia Records phát hành vào ngày 15 tháng 11 năm 2019. Đây là album tiếng Anh đầu tiên của cô trong vòng 6 năm kể từ sau Loved Me Back to Life (2013). Với Courage, Dion đã làm việc cùng nhiều người viết bài hát và nhà sản xuất khác nhau, trong đó có Sia, David Guetta, Greg Kurstin, Sam Smith, StarGate, Jimmy Napes, Lauv, LP, Jörgen Elofsson, Stephan Moccio, Eg White, Liz Rodrigues của The New Royales và nhiều người khác.

Vào tháng 6 năm 2019, Dion kết thúc chương trình cố định Celine tại Las Vegas và phát hành "Flying on My Own" như một món quà gửi đến những người hâm mộ. Vào tháng 9 năm 2019, cô khởi động chuyến lưu diễn Courage World Tour và ra mắt thêm 3 bài hát mới: "Imperfections", "Lying Down" và "Courage". Courage bao gồm 16 bài hát cùng với 4 bài hát thêm của phiên bản cao cấp. Album nhận được đa số những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc và ra mắt ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng US Billboard 200, trở thành album quán quân đầu tiên của Dion tại Hoa Kỳ trong 17 năm kể từ sau A New Day Has Come (2002). Album cũng ra mắt ở vị trí quán quân tại Canada, Thụy Sĩ và Bỉ. Courage cũng giành được vị trí trong top 10 của nhiều quốc gia khác, trong đó có vị trí á quân tại Anh Quốc, Pháp và Úc, cũng như vị trí thứ 4 tại Áo và Đức.

Bối cảnh và phát triển[sửa | sửa mã nguồn]

Trong tháng 11 năm 2013, Dion phát hành album phòng thu tiếng Anh trước đó, Loved Me Back to Life.[3] Ngay tháng sau, chồng cô, René Angélil, được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vòm họng và phải trải qua phẫu thuật.[4] Vào tháng 6 năm 2014, Angélil thôi giữ vai trò quản lý của Dion để tập trung vào sức khỏe của mình, và trong tháng 8 năm 2014 Dion đã hoãn các chương trình biểu diễn do tình hình sức khỏe của chồng cô trở nên xấu đi.[5][6] Angélil qua đời vào ngày 14 tháng 1 năm 2016.[7] Ngày 22 tháng 5 năm 2016, trong màn biểu diễn công khai đầu tiên ở một địa điểm khác The Colosseum tại Caesars Palace, Dion đã trình diễn "The Show Must Go On" trong lễ trao Giải thưởng âm nhạc Billboard 2016, nơi cô nhận được Giải Biểu tượng Billboard.[8] Vào tháng 8 năm 2016, cô phát hành album tiếng Pháp Encore un soir và đạt được thành công về cả chuyên môn lẫn thương mại.[9]

Vào tháng sau, cô phát hành "Recovering", một bài hát do Pink chắp bút để tôn vinh người chồng quá cố của Dion.[10] Bài hát được quảng bá là ca khúc đầu tiên trong bản ghi âm tiếng Anh sắp phát hành của cô. Ở thời điểm đó, bản ghi này dự kiến được phát hành vào năm 2017.[11][12] Cô đã biểu diễn ca khúc trong Sự kiện Trực tiếp Stand Up to Cancer vào ngày 9 tháng 9 năm 2016.[10] Vào tháng 3 năm 2017, ca khúc "How Does a Moment Last Forever" của Dion được phát hành trong album nhạc phim Beauty and the Beast: Original Motion Picture Soundtrack.[13] Dion cũng khởi động 2 chuyến lưu diễn trong mùa hè tại Canada và châu Âu vào năm 20162017.[14][15] Trong năm 2018, cô phát hành "Ashes" từ nhạc phim của bộ phim siêu anh hùng Deadpool 2 của Mỹ, và lưu diễn tại châu Á, Úc và New Zealand.[16][17] Tháng 9 năm 2018, Dion thông báo về việc kết thúc chương trình cố định Celine tại Las Vegas, với buổi diễn cuối cùng được ấn định vào ngày 8 tháng 6 năm 2019.[18]

Vào ngày 3 tháng 4 năm 2019, cô thông báo về chuyến lưu diễn Courage World Tour 2019/2020, với khởi đầu tại Thành phố Québec, Canada vào ngày 18 tháng 9 năm 2019.[19][20] Dion cũng thông báo về album tiếng Anh mới cùng tên, dự định được phát hành vào tháng 11 năm 2019.[19][21] Giải thích về tựa đề album, cô nói: "Tôi nghĩ rằng tôi đã trải qua rất nhiều chuyện. Và cuộc sống đã cho tôi những công cụ… để tôi tìm được sức mạnh trong tâm hồn, tìm được sự cản đảm và để tôi bước tiếp. Những người mà tôi vô cùng yêu quý đã đón nhận những khoảnh khắc khó khăn. Họ đã cho tôi rất nhiều sức mạnh. Và sau đó có một bài hát có tên là "Courage", và tất cả chúng tôi đã không mất quá lâu để nói rằng, 'Tôi nghĩ rằng album này nên được đặt tên là Courage'".[19] Dion thông báo về chuyến lưu diễn trong một video có tựa đề "Ciao for now Las Vegas". Trong video, cô rời Las Vegas trên một chiếc xe chở toàn drag queen.[21][22] Diễn viên đóng thế Steven Wayne vào vai Dion, cùng với Bryan Watkins, Crystal Woods và Hot Chocolate trong vai Barbra Streisand, Diana RossTina Turner.[23][24] Video quảng bá cũng tiết lộ một ca khúc mới có tựa đề "Flying on My Own".[21] Ngày 5 tháng 4 năm 2019, trong chương trình Jimmy Kimmel Live!, Dion đã quảng bá về chuyến lưu diễn sắp tới, hát một số đoạn trong ca khúc "Courage" và trình diễn "Ashes".[25][26] Vào các ngày 7 và 8 tháng 6 năm 2019, Dion đã biểu diễn "Flying on My Own" trong chương trình cố định tại Las Vegas và màn biểu diễn trực tiếp được phát hành trên các nền tảng streaming vào ngày 8 tháng 6.[27][28][29]

Trong những tháng gần tới thời điểm phát hành album, Dion đã xuất hiện trên bìa của các tạp chí Elle, Harper's BazaarCR Fashion Book, và được các tạp chí Vanity FairPeople bình chọn là một trong số những ngôi sao có trang phục đẹp nhất năm 2019.[30][31][32][33][34] Vào ngày 18 tháng 9 năm 2019 và tại thời điểm bắt đầu của Courage World Tour, Dion đã thực hiện phỏng vấn trong chương trình Today, cũng như trong chương trình "Celine Dion from A to Z" của BBC Radio vào ngày 22 tháng 9 năm 2019.[35][36]

Sáng tác và thu âm[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 4 năm 2019, Dion tiết lộ rằng cô đã nhận được 48 lời đăng ký tham gia viết bài hát cho album sắp tới và cô phải chọn 12 người trong số họ.[37] Album mới, Courage, sẽ khám phá những định hướng âm nhạc mới, trong khi tiếp tục giữ phong cách quen thuộc với những người hâm mộ của Dion.[38] Sau khi phát hành ca khúc "Recovering" do Pink sáng tác vào tháng 9 năm 2016, Dion ghi âm nhạc mới vào tháng 10 năm 2016 cùng với Diane Warren, người đã chắp bút cho nhiều bản hit của cô, trong đó có "Because You Loved Me".[10][39] Vào tháng 4 năm 2017, Dion có đề cập rằng Sia đã viết 3 bài hát cho cô.[40] Tháng 4 năm 2019, có thông báo cho biết album mới sẽ có sự tham gia của Sia và một trong số các bài hát mà cô sáng tác có tựa đề là "Baby".[37][41][42] Tháng 12 năm 2017, Dion tiết lộ rằng cô đã thu âm nhạc mới cùng với Stephan MoccioMaty Noyes.[43] Moccio là người chắp bút cho đĩa đơn "A New Day Has Come" đạt được thành công vào năm 2002 của Dion và cũng đồng sáng tác nhiều bản hit của các nghệ sĩ khác như "Earned It" của The Weeknd và "Wrecking Ball" của Miley Cyrus.[44] Cũng trong tháng 12 năm 2017, Dion ghi âm bài hát "Flying on My Own" trong Phòng thu tại Palms ở Las Vegas. Bài hát được viết bởi Jörgen Elofsson, Anton Mårtenson và Liz Rodrigues. Tháng 10 năm 2018, David Guetta đề cập rằng Dion đã thu âm một bài hát mà anh cùng sáng tác với Sia.[45] Khi đưa ra thông báo về chuyến lưu diễn Courage World Tour vào tháng 4 năm 2019, Dion tiết lộ cô đã thu âm một bài hát mà sau này đã trở thành ca khúc chủ đề cho album, có tựa đề "Courage" và dự kiến phát hành vào tháng 11 năm 2019.[21] Video quảng bá cho chuyến lưu diễn sử dụng một đoạn của bài hát mới, "Flying on My Own".[21][22] Vào ngày 20 tháng 5 năm 2019, một phần của một ca khúc mới khác, "Lying Down" do David Guetta và Sia sáng tác, xuất hiện trong một tập có sự tham gia của Dion trong chương trình Carpool Karaoke với James Corden.[46] "Flying on My Own" (Trực tiếp từ Las Vegas) được phát hành ở định dạng kỹ thuật số vào ngày 9 tháng 6 năm 2019, một ngày sau khi Dion kết thúc chương trình cố định kéo dài 16 năm của mình tại Las Vegas.[47] Phiên bản ghi âm trong phòng thu được phát hành vào ngày 28 tháng 6 năm 2019.[48] Vào ngày 18 tháng 9 năm 2019, Dion phát hành 3 ca khúc mới gồm "Lying Down", "Courage" và "Imperfections", chia sẻ ảnh bìa của album và thông báo ngày phát hành album sẽ là 15 tháng 11 năm 2019.[49]

Âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Courage, album tiếng Anh đầu tiên của Dion trong vòng 6 năm, được phát hành vào ngày 15 tháng 11 năm 2019.[50][51] Phiên bản chuẩn của album bao gồm 16 bài hát và phiên bản cao cấp bao gồm 20 bài hát.[50][51] Album là sự pha trộn của những bản ballad và những ca khúc có nhịp độ nhanh, trong đó có những bài như "Courage", "Imperfections", "Lying Down" và "Flying on My Own".[50] Trong Courage, Dion đã làm việc với nhiều người viết bài hát và nhà sản xuất khác nhau, bao gồm Dan Wilson, Johan Carlsson, Ross Golan, Skylar Grey, LP, Jon Levine, Greg Kurstin, Eg White, The Stereotypes, Steve Aoki, Freddy Wexler, Andrew Wells, Lauv, Michael Pollack, Nicholas Perloff-Giles, DallasK, David Guetta, Giorgio Tuinfort, Sia, Stephan Moccio, Erik Alcock, Liz Rodrigues, Jörgen Elofsson và Anton Mårtensson.[50] Album này cũng là dự án đầu tiên của Dion mà cô giữ vai trò điều hành sản xuất.[50] "Imperfections" là một ca khúc nhạc dance có nhịp độ trung bình, tập trung vào sự tự phê bình – điều mà tất cả mọi người đều có thể hiểu và thông cảm.[49] Bản ballad nặng trĩu tiếng đàn dây "Lying Down", viết bởi Sia và David Guetta, khích lệ tư duy tươi mới sau khi kết thúc một mối quan hệ "độc hại".[49] Ca khúc chủ đề "Courage" là một bài ca về sức mạnh để vượt qua những thử thách trong cuộc sống. Trong bài hát, Dion đã cầu xin: "Courage, don't you dare fail me now/ I need you to keep away the doubts/ I'm staring in the face of something new/ You're all I've got to hold on to/ So courage, don't you dare fail me now."[49] Danh sách bài hát đầy đủ của Courage được tiết lộ vào ngày 12 tháng 10 năm 2019.[52]

Tiếp nhận phê bình[sửa | sửa mã nguồn]

Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic68/100[53]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[54]
Billboard(tích cực)[55]
The Guardian[56]
Idolator[57]
The Independent[58]
MusicOMH[59]
The Observer[60]
Rolling Stone[1]
Slant Magazine[61]
Variety(trái chiều)[2]

Courage nhận được chủ yếu những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Trên Metacritic, một trang đưa ra số điểm chuẩn trên thang 100 dựa trên các bài đánh giá của các xuất bản phẩm phổ biến, album nhận được điểm trung bình là 68 dựa trên 6 bài đánh giá, tương ứng với nhận xét "các đánh giá nhìn chung là tích cực."[53] Mike Wass từ Idolator đánh giá Courage đạt 4,5 trên 5 sao, mô tả rằng đây là album đa dạng nhất của Dion, và rằng đó là một điều thực sự đặc biệt ở giai đoạn này trong sự nghiệp của cô.[57] Ông cảm giác rằng, trong khi việc sản xuất các bài hát có sự sáng tạo thì chủ đề của chúng tỏ ra quá truyền thống, do Dion vẫn đi sâu vào những nội dung về tình cảm.[57] Neil Z. Yeung của AllMusic đánh giá album đạt 4 trên 5 sao, gọi Courage là một sản phẩm có tính chuyển hóa và giải tỏa cảm xúc của nữ ca sĩ có giọng ca khỏe khoắn và đầy kỹ thuật, chuyên chở người nghe đi qua hành trình chữa lành và bước tiếp của cô.[54] Theo ông, album được đảm bảo nhờ một số lượng lớn các bài hát gây tổn thương có nhịp độ trung bình. Những ca khúc này có tác dụng điều trị cho Dion và là những lời thú nhận yếu ớt mà cô gửi đến người hâm mộ.[54] Nick Smith từ MusicOMH cũng đánh giá Courage đạt 4 trên 5 sao.[59] Ông chỉ ra rằng các chủ đề của album (sức mạnh nội tâm, sự dũng cảm và tự nhận thức bản thân) có tính mạch lạc, và rằng Courage đánh dấu một sự trở lại đầy ấn tượng.[59]

Cây viết Brittany Spanos của Rolling Stone tán dương những ca khúc contemporay, dance-pop sôi động cũng như những bản ballad trong album, khẳng định rằng: "xuyên suốt bản thu âm LP, những khoảnh khắc dance-pop hiện lên rõ nét nhất khi có sự cường điệu phong cách theo hướng hài hước, một điều mà ở đó những kĩ năng trình diễn xuất sắc của Dion tỏa sáng" và "cũng giống như mọi thứ mà Dion làm, những bản ballad hát bằng cổ họng, trong đó cô thể hiện chất giọng nữ trung với quãng giọng rộng, là những viên ngọc thực sự".[1] Trong đoạn tổng kết, Spanos đã so sánh Courage với album Believe phát hành năm 1998 của Cher và viết rằng "để ý rằng Courage là một phiên bản của album Believe của Cher do Dion thực hiện: một album được phát hành chính xác vào đúng thời điểm và chứng tỏ với một thế hệ mới rằng, cô ấy vẫn xứng đáng được tìm đến và đáng được công nhận là một diva có đủ khả năng để bắt kịp với thời đại".[1] Theo Alexis Petridis từ The Guardian, những ca khúc xuất sắc nhất trong Courage là những bản ballad có phong cách rất tương đồng với thứ âm nhạc từng giúp Dion trở nên nổi tiếng, ví dụ như ca khúc chủ đề.[56] Alexandra Pollard của The Independent viết rằng những khoảnh khắc có ảnh hưởng nhất trong bản ghi âm dường như là lúc cô phải đối diện với sự ra đi của một người thân yêu, như trong bài "For the Lover That I Lost" do Sam Smith đồng sáng tác và trong "Courage".[58] Michael Cragg của The Observer viết rằng Courage, album được ghi âm sau cái chết của chồng Dion vào năm 2016, được phủ đầy bằng những lời ca về sự mất mát và hồi sinh.[60]

Jason Lipshutz của Billboard viết rằng album Loved Me Back to Life (2013) của Dion là một nỗ lực thành công, nhưng Courage thậm chí còn giàu sức sống hơn, với "Flying on My Own" mở đầu album một cách "đầy kích thích", ca khúc chủ đề "gây choáng váng", và nhiều "những ca khúc phản ánh khác rất đáng nghe".[55] Theo ông, việc Dion tập trung vào sự mất mát, hồi phục và tăng cường sức mạnh cho bản thân trong Courage đã khiến album trở thành một trong số những sản phẩm pop chín chắn và ấn tượng nhất trong năm 2019.[55] Trong bài đánh giá cho tạp chí Variety, cây viết A.D. Amorosi đưa ra một đánh giá trái chiều cho album, nhận xét rằng "những khoảnh khắc lộng lẫy và chân thực nhất trong Courage là sự mất mát, nỗi sợ hãi và sự dứt khoát trong phong cách hát quý phái và cần thật nhiều hơi của Dion, và của mình Dion mà thôi".[2] Ông chỉ trích nhiều bài hát trong album như "Flying on My Own", "Lovers Never Die", "The Chase" và một số bài khác, cho rằng chúng khiến Dion hát "nghe như người máy và đơn điệu".[2] Ông tổng kết bài đánh giá của mình với nhận xét "người ta có thể cãi rằng Courage là âm thanh của một Celine Dion không bị giới hạn và không bị tổn thương, sẵn sàng thử nghiệm vượt lên những âm thanh thính phòng thường thấy của cô, và dạo chơi ở nhiều thể loại cùng với những đồng nghiệp tuổi teen đương thời trên các bảng xếp hạng. Điều đó ổn thôi. Hãy bỏ nó đi ngay bây giờ. Ít nhất thì một nửa album này rất tuyệt vời. Nhưng đừng để cô ấy làm những việc này một cách thường xuyên".[2]

Danh sách cuối năm
Xuất bản phẩm Danh hiệu Ng.
Billboard 50 Album xuất sắc nhất năm 2019: Sự lựa chọn của ban Biên tập

Các đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 6 năm 2019, Dion phát hành "Flying on My Own" như một món quà dành tặng những người hâm mộ.[63] Ca khúc vươn đến vị trí quán quân tại Quebec và nằm trong top 10 của các bảng xếp hạng kỹ thuật số tại Canada và Pháp, cũng như trên bảng xếp hạng US Dance Club Songs.[64][65] Ngày 18 tháng 9 năm 2019, Dion phát hành thêm 3 bài hát gồm "Imperfections", "Lying Down" và "Courage".[49] Video âm nhạc của "Imperfections" ra mắt vào ngày 26 tháng 9 năm 2019 và ca khúc được gửi đến các đài phát thanh vào ngày 30 tháng 9.[66][67] Vào ngày 19 tháng 10 năm 2019, "Lying Down" được thêm vào bảng A trong danh sách phát của đài phát thanh BBC Radio 2 tại Vương quốc Anh và trở thành bản ghi âm của tuần.[68] Video âm nhạc của "Courage" ra mắt vào ngày 13 tháng 11 năm 2019.[69] "Soul" được phát hành thành đĩa đơn thứ tư trên hệ thống các đài phát thanh tại Ý vào ngày 24 tháng 1 năm 2020.[70]

Diễn biến thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

Courage ra mắt ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Canadian Albums Chart với 55.000 đơn vị album tương đương, trong đó có 53.000 bản là album thuần, trở thành album quán quân thứ 15 của Dion tại Canada.[71] Album cũng ra mắt ở vị trí quán quân trên bảng xếp hạng US Billboard 200 của tuần ngày 30 tháng 11 năm 2019, đem về cho Dion album quán quân đầu tiên tại Hoa Kỳ trong 17 năm. Lần gần nhất cô đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng là vào năm 2002 với album A New Day Has Come. Courage cũng là album quán quân thứ năm của cô tại đây, bán ra 113.000 đơn vị album tương đương trong tuần đầu phát hành, trong đó có 109.000 bản là album thuần.[72]

Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách những người thực hiện được lấy từ siêu dữ liệu của Apple Music.

Courage – Phiên bản chuẩn[73]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Flying on My Own"
  • Elofsson
  • Hybrid
  • Ugly Babies
3:32
2."Lovers Never Die"
2:51
3."Falling in Love Again"Skylar Grey
  • John Doelp
  • Denis Savage
3:51
4."Lying Down"
  • Guetta
  • Tuinfort
3:58
5."Courage"
4:14
6."Imperfections"
DallasK3:59
7."Change My Mind"Levine3:01
8."Say Yes"
  • Elofsson
  • Rodrigues
Elofsson3:32
9."Nobody's Watching"
  • Elofsson
  • Rodrigues
  • Elofsson
  • Hybrid
3:12
10."The Chase"
McConnell3:49
11."For the Lover That I Lost"2:54
12."Baby"Kurstin3:34
13."I Will Be Stronger"Francis "Eg" WhiteWhite3:27
14."How Did You Get Here"
  • The Stereotypes
  • 9AM
4:21
15."Look at Us Now"
  • Steph Jones
  • Brandon Treyshun Campbell
  • Andrew Wells
A. Wells3:18
16."Perfect Goodbye"
3:28
Tổng thời lượng:57:00
Courage – Phiên bản cao cấp[74]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
17."Best of All"
  • Ben Earle
  • White
White3:23
18."Heart of Glass"
  • Furler
  • Kurstin
Kurstin3:31
19."Boundaries"Moccio3:22
20."The Hard Way"
G. Wells3:24
Tổng thời lượng:70:40
Courage – Bài hát thêm cho phiên bản phát hành tại Nhật Bản[75]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
21."Soul"The Elev3n3:14
Tổng thời lượng:73:54

Ghi chú

  • ^[a] chỉ người sản xuất bổ sung
  • ^[b] chỉ người đồng sản xuất trong buổi ghi âm có dàn nhạc

Xếp hạng và chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Lịch sử phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc gia Ngày phát hành Nhãn hiệu Định dạng Mã catalog
Nhiều quốc gia 15 tháng 11 năm 2019 Columbia 190759524824 (Phiên bản chuẩn)[73]
194397018127 (Phiên bản cao cấp)[74]
Nhật Bản 27 tháng 11 năm 2019 SMEJ Blu-spec CD2 SICP-31334[113]
Nhiều quốc gia 7 tháng 2 năm 2020 Columbia LP 190759524817[114]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d Spanos, Brittany. “Celine Dion's 'Courage' Has Her Believing in Life After Love”. Rolling Stone. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019.
  2. ^ a b c d e Amorosi, A.D. “Album Review: Celine Dion's 'Courage'. Variety. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019.
  3. ^ Andrew Hampp (ngày 29 tháng 8 năm 2013). “Celine Dion Talks 'Loved Me Back to Life' Single, Album (Exclusive)”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  4. ^ Alan Duke (ngày 14 tháng 8 năm 2014). “Celine Dion cancels shows as husband fights cancer”. CNN. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  5. ^ Lesley Messer (ngày 13 tháng 8 năm 2014). “Celine Dion Cancels Tour Because of Husband Rene Angelil's Illness”. ABC News. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  6. ^ Etan Vlessing (ngày 6 tháng 12 năm 2014). “Celine Dion Has New Manager as Rene Angelil Steps Down”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  7. ^ “Celine Dion's Husband Has Lost A 'Courageous' Battle With Cancer”. Smooth Radio. ngày 14 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  8. ^ “Celine Dion to Receive ICON Award & Perform at 2016 Billboard Music Awards”. Billboard. ngày 4 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  9. ^ Hugh McIntyre (ngày 3 tháng 10 năm 2016). “Celine Dion's New Album Took Over The Globe Last Month, And The Hoa Kỳ Didn't Even Notice”. Forbes. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  10. ^ a b c Mary J. DiMeglio (ngày 9 tháng 9 năm 2016). “Celine Dion, With Pink's Help, 'Recovering' On New Song: Listen”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  11. ^ Marc-André Lemieux. “Céline Dion dévoile Recovering”. Le Journal de Montréal. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2019.
  12. ^ “L'été de Céline”. Le Journal de Québec. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2019.
  13. ^ “Celine Dion almost turned down 'Beauty and the Beast' song”. Zee News. ngày 4 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  14. ^ Bob Allen (ngày 21 tháng 7 năm 2016). “Celine Dion's Summer Tour Launch Tops Hot Tours Ranking”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  15. ^ “Celine Dion Announces 2017 Summer Tour: See the Europe and UK Dates”. PopCrush. ngày 25 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  16. ^ Mackenzie Cummings-Grady (ngày 3 tháng 5 năm 2018). “Celine Dion Debuts Epic New Single & Video 'Ashes' For 'Deadpool 2': Watch”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  17. ^ Eric Frankenberg (ngày 4 tháng 4 năm 2019). “Celine Dion Wraps Summer Tour With $56 Million in the Bank”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2018.
  18. ^ Starr Bowenbank (ngày 24 tháng 9 năm 2018). “Céline Dion Announces End Of Her Las Vegas Residency After Eight Years”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  19. ^ a b c Tallie Spencer; Dave Brooks (ngày 3 tháng 4 năm 2019). “Celine Dion Announces 'Courage World Tour' and New Album”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  20. ^ Jonathan Landrum (ngày 3 tháng 4 năm 2019). “Celine Dion announces Courage World Tour, new album in 2019”. The Washington Post. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.[liên kết hỏng][liên kết hỏng]
  21. ^ a b c d e Althea Legaspi (ngày 4 tháng 4 năm 2019). “Celine Dion Plots First Hoa Kỳ Tour in 10 Years”. Rolling Stone. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  22. ^ a b “Ciao for now Las Vegas”. YouTube. ngày 3 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.
  23. ^ Suzannah Showler (ngày 28 tháng 8 năm 2019). “Céline Dion is Everywhere”. The Walrus. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2019.
  24. ^ “Steven Wayne”. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2019 – qua Facebook.
  25. ^ “Celine Dion on Ending Las Vegas Residency, Her Kids & New Chapter”. YouTube. ngày 6 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2019.
  26. ^ “Céline Dion - Ashes (Performance on Jimmy Kimmel Live!)”. YouTube. ngày 7 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2019.
  27. ^ Emily Zemler (ngày 10 tháng 6 năm 2019). “Watch Celine Dion Debut 'Flying on My Own' in Las Vegas”. Rolling Stone. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2019.
  28. ^ Susan Haas. “Céline Dion says goodbye after 16 years in Las Vegas; debuts new song”. USA Today. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2019.
  29. ^ “Céline Dion - Flying On My Own (Live from Las Vegas)”. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2019 – qua YouTube.
  30. ^ Katie Connor (ngày 1 tháng 5 năm 2019). “Celine Dion is Living Her Best Life”. Elle. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2019.
  31. ^ “Buy our limited-edition Celine Dion September issue cover”. Harper's Bazaar. ngày 1 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2019.
  32. ^ Joshua Glass (ngày 21 tháng 8 năm 2019). “Céline Dion And Steven Klein Contrast the Public and the Private for CR Fashion Book Issue 15”. CR Fashion Book. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2019.
  33. ^ Maggie Bullock (ngày 5 tháng 9 năm 2019). “The 2019 Vanity Fair Best-Dressed List”. Vanity Fair. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2019.
  34. ^ “People's Best Dressed Stars of 2019”. People. ngày 4 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2019.
  35. ^ “Comin up on Today, September 16 – 20”. Today. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2019.
  36. ^ “Celine Dion from A to Z”. BBC Radio 2. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2019.
  37. ^ a b Steve Appleford (ngày 4 tháng 4 năm 2019). “For Celine Dion, Jokes and Songs Dominate Hoa Kỳ Tour Event”. Rolling Stone. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2019.
  38. ^ Bryan Alexander (ngày 4 tháng 4 năm 2019). “Celine Dion announces new tour, album 3 years after husband's death: 'Time for a change'. USA Today. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2019.
  39. ^ “Céline and @warren_diane, her longtime musical partner”. Instagram. ngày 6 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2019.
  40. ^ Caroline Westbrook/ (ngày 20 tháng 4 năm 2017). “Celine Dion reveals Sia has written three songs for her – and she wants to work with Adele”. Metro. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2019.
  41. ^ “Holy Moly @celinedion you sing the SHIT out of 'baby'. Twitter. ngày 4 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2019.
  42. ^ “Big Albums Coming Out in 2019”. Official Charts Company. ngày 8 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2019.
  43. ^ “I love working with these two!”. Instagram. ngày 13 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2019.
  44. ^ Dale Kawashima. “Aldo Nova & Stephan Moccio Tell How They Wrote The Big Celine Dion Hit, "A New Day Has Come". songwriteruniverse.co. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2019.
  45. ^ Brent Furdyk (ngày 19 tháng 10 năm 2018). “David Guetta Says Celine Dion Is Recording New Song He Co-Wrote With Sia, But 'Nothing Is For Sure'. MSN. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2019.
  46. ^ “Céline Dion Carpool Karaoke”. ngày 20 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2019 – qua YouTube.
  47. ^ “Flying on My Own (Live from Las Vegas) by Celine Dion”. Amazon. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2019.
  48. ^ “Flying on My Own + Dave Audé Remix”. Amazon. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2019.
  49. ^ a b c d e Rania Aniftos (ngày 18 tháng 9 năm 2019). “Celine Dion Triples Down With 'Courage' Title Track, Plus New Singles 'Lying Down' & 'Imperfections': Listen”. Billboard. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2019.
  50. ^ a b c d e “Courage Deluxe Edition”. Amazon. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2019.
  51. ^ a b “Courage Standard Edition”. Amazon. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2019.
  52. ^ “Céline Dion (@celinedion) on Instagram: "The full track list for #Courage is out now, including 4 bonus tracks on the Deluxe Edition!...". ngày 12 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2019.
  53. ^ a b “Reviews for Courage by Celine Dion”. Metacritic. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019.
  54. ^ a b c Neil Z. Yeung. “Courage - Céline Dion”. AllMusic. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2019.
  55. ^ a b c Jason Lipshutz (ngày 15 tháng 11 năm 2019). “First Stream: New Music From Taylor Swift, Billie Eilish, Celine Dion & More”. Billboard. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2019.
  56. ^ a b Alexis Petridis (ngày 14 tháng 11 năm 2019). “Céline Dion: Courage review – pushing on to a place beyond cool”. The Guardian. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2019.
  57. ^ a b c Mike Wass (ngày 12 tháng 11 năm 2019). “Album Review: Céline Dion's 'Courage' Is An Eclectic Triumph”. Idolator. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2019.
  58. ^ a b Alexandra Pollard (ngày 14 tháng 11 năm 2019). “Celine Dion review, Courage: Lump-in-the-throat moments let down by vague and inauthentic songs”. The Indypendent. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2019.
  59. ^ a b c Nick Smith (ngày 13 tháng 11 năm 2019). “Celine Dion – Courage”. musicOMH. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2019.
  60. ^ a b Michael Cragg (ngày 17 tháng 11 năm 2019). “Céline Dion: Courage review – a quirky catharsis”. The Observer. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2019.
  61. ^ Alexa Camp (ngày 15 tháng 11 năm 2019). “Review: Celine Dion's Courage Digs Deep But Largely Comes Up Empty”. Slant Magazine. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2019.
  62. ^ “The 50 Best Albums of 2019: Staff Picks”. billboard.com/. ngày 10 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2019.
  63. ^ Marc-André Lemieux (ngày 28 tháng 6 năm 2019). “Les radios ne joueront pas la nouvelle chanson de Céline Dion”. Le Journal de Québec (bằng tiếng Pháp). Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2019.
  64. ^ “Hot Canadian Digital Song Sales”. Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2019.
  65. ^ “Le Top de la semaine: Top Singles Téléchargés” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. ngày 5 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2019.[liên kết hỏng]
  66. ^ “Céline Dion - Imperfections (Official Video)”. ngày 26 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2019 – qua YouTube.
  67. ^ “Hot/Modern/AC Future Releases”. All Access. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2019.
  68. ^ “Radio 2 New Music Playlist”. BBC Radio 2. ngày 16 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2019.
  69. ^ “Céline Dion - Courage (Official Video)”. ngày 13 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2019 – qua YouTube.
  70. ^ “Celine Dion – "Soul" (Radio Date: 24/01/2020)”. radiodate.it (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2020.
  71. ^ a b “Celine Slays Competition With No. 1 Album Selling 50K+ Copies”. FYIMusicNews. ngày 24 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  72. ^ a b Caulfield, Keith (ngày 24 tháng 11 năm 2019). “Celine Dion Scores First No. 1 Album in Over 17 Years on Billboard 200 Chart”. Billboard. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  73. ^ a b “Courage (Standard Edition)”. Apple Music. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2019.
  74. ^ a b “Courage (Deluxe Edition)”. Apple Music. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2019.
  75. ^ “カレッジ” (bằng tiếng Nhật). Sony Music Entertainment Japan. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2019.
  76. ^ “ARIA Australian Top 50 Albums”. Australian Recording Industry Association. ngày 25 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2019.
  77. ^ "Austriancharts.at – Céline Dion – Courage" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2019.
  78. ^ "Ultratop.be – Céline Dion – Courage" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2019.
  79. ^ "Ultratop.be – Céline Dion – Courage" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2019.
  80. ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn 201947 trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2019.
  81. ^ “Lista prodaje 46. tjedan 2019. (11.11.2019. - 17.11.2019.)”. Top of the Shops. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2019.
  82. ^ “Hitlisten.NU – Album Top-40 Uge 46, 2019”. Hitlisten. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2019.
  83. ^ "Dutchcharts.nl – Céline Dion – Courage" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2019.
  84. ^ "Céline Dion: Courage" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2019.
  85. ^ “Top Albums (Week 47, 2019)” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  86. ^ "Offiziellecharts.de – Céline Dion – Courage" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2019.
  87. ^ “Official IFPI Charts - Top-75 Albums Sales Chart (Combined) - Εβδομάδα: 51/2019” (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Greece. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2019.
  88. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2019. 47. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2019.
  89. ^ “Irish Albums Chart: ngày 22 tháng 11 năm 2019”. Irish Recorded Music Association. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2019.
  90. ^ “Album – Classifica settimanale WK 47 (dal 15.11.2019 al 21.11.2019)” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2019.
  91. ^ 9 tháng 12 năm 2019/ "Oricon Top 50 Albums: ngày 9 tháng 12 năm 2019" (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2019.
  92. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên BillboardJapan
  93. ^ “NZ Top 40 Albums Chart”. Recorded Music NZ. ngày 25 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2019.
  94. ^ “VG-lista – Topp 40 Album uke 47, 2019”. VG-lista. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2019.
  95. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2019.
  96. ^ "Portuguesecharts.com – Céline Dion – Courage" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2019.
  97. ^ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2019.
  98. ^ “SK – Albums – Top 100: CELINE DION Courage”. ČNS IFPI. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2019.
  99. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên SouthAfrica
  100. ^ “Top 100 Albumes – Semana 47: del 15.11.2019 al 21.11.2019” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2019.
  101. ^ “Veckolista Album, vecka 47”. Sverigetopplistan. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2019.
  102. ^ "Swisscharts.com – Céline Dion – Courage" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2019.
  103. ^ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2019.
  104. ^ “Top 200 Albums”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2019.
  105. ^ “Jaaroverzichten 2019”. Ultratop. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2019.
  106. ^ “Rapports Annuels 2019”. Ultratop. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2019.
  107. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên CanadianSoundScan
  108. ^ “Tops de l'année: Top Albums 2019” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2020.
  109. ^ “Swiss Year-End Charts 2019”. Hung Medien. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2019.
  110. ^ Christophe Segard (ngày 7 tháng 1 năm 2020). “Angèle, Nekfeu et Johnny Hallyday en tête des meilleures ventes d'albums en 2019”. Aficia (bằng tiếng Pháp). Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  111. ^ “Chứng nhận album Pháp – Celine Dion – Courage” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2019.
  112. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Celine Dion – Courage” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2020.
  113. ^ “2019/11/27発売予定 セリーヌ・ディオン『カレッジ』 国内盤CD購入者対象特典のご案内” (bằng tiếng Nhật). Sony Music Entertainment Japan. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2019.
  114. ^ “Celine Dion - Courage - Vinyl”. Amazon. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2019.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]