Oxycheilinus arenatus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Oxycheilinus arenatus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Oxycheilinus
Loài (species)O. arenatus
Danh pháp hai phần
Oxycheilinus arenatus
(Valenciennes, 1840)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Cheilinus arenatus Valenciennes, 1840
  • Cheilinus notophthalmus Bleeker, 1853

Oxycheilinus arenatus là một loài cá biển thuộc chi Oxycheilinus trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1840.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của loài cá này trong tiếng Latinh có nghĩa là "có cát", hàm ý đề cập đến màu nâu cát ở lưng của mẫu định danh sau khi được phơi khô[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

O. arenatus có phạm vi phân bố rải rác trên khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Ở Ấn Độ Dương, loài này được ghi nhận tại Biển Đỏ, bờ biển Mozambique, Madagascar và các đảo quốc lân cận, MaldivesChagos; ở Thái Bình Dương, loài này được ghi nhận ở vùng biển các quốc gia thuộc Đông Nam Á hải đảo (trừ khu vực Biển Đông đổ xuống eo biển MalaccaNew Guinea); ngược lên phía bắc đến đảo Đài Loan; phía đông trải dài đến Palau, Guam, quần đảo Marshall, Tonga, Wallis và Futuna; quần đảo SamoaTahiti (Polynésie thuộc Pháp)[1].

O. arenatus ưa sống gần các rạn san hô mềm viền bờ và trong các hang động ở độ sâu khoảng từ 20 đến 60 m[3].

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở O. arenatus là 21 cm[3]. Cơ thể đặc trưng bởi một dải màu đen giữa thân dọc theo chiều dài cơ thể (không có ở những loài cùng chi) và một đốm đen ở vây lưng trước, bao lấy 3 gai đầu tiên[4].

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–11; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5[3].

Sinh thái[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của O. arenatus là các loài động vật giáp xác và cá nhỏ[3]. Chúng thường sống đơn độc. Loài này được đánh bắt bằng lưới vây và bẫy cá nhằm mục đích làm thực phẩm[1].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c M. Liu; A. To (2010). Oxycheilinus arenatus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T187718A8611549. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187718A8611549.en. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ C. Scharpf; K. J. Lazara (2020). “Order LABRIFORMES: Family LABRIDAE (i-x)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2021.
  3. ^ a b c d Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2021). Oxycheilinus arenatus trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2021.
  4. ^ John E. Randall; Philippe Bacchet; Richard Winterbottom; Louise Wrobel (2002). “Fifty new records of shore fishes from the Society Islands and Tuamotu Archipelago” (PDF). aqua, Journal of Ichthyology and Aquatic Biology. 5 (4): 153–166. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2021.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)