Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cao Văn Luận”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 2: Dòng 2:


==Tiểu sử==
==Tiểu sử==
Ông sinh vào năm 1908, tại Hà Tĩnh, trong một gia đình Công giáo lâu đời. Thuở nhỏ tu học tại chủng viện Xuân Bích, [[Hà Nội]]. Khoảng năm 1939, thụ phong linh mục, sau đó du học tại Pháp. Năm 1947, Cao Văn Luận về nước làm cha xứ tại một họ đạo ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh [[Quảng Bình]]. Năm 1949, Ông vào Huế dạy triết học tại trường Quốc học.
Ông sinh vào năm 1908, tại Hà Tĩnh, trong một gia đình Công giáo lâu đời. Thuở nhỏ tu học tại chủng viện Xuân Bích, [[Hà Nội]]. Khoảng năm 1939, thụ phong linh mục, sau đó du học tại Pháp. Năm 1947, Cao Văn Luận về nước làm cha xứ tại một họ đạo ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh [[Quảng Bình]]. Năm 1949, Ông vào Huế dạy triết học tại trường Quốc học. Ông có mối quan hệ xã hội sâu rộng trong và ngoài nước.


Năm 1957, Cao Văn Luận cùng một số trí thức miền Trung vận động thành lập [[Viện Đại học Huế]]<ref>Viện Đại học Huế là một cơ sở Đại học đầu tiên ở miền Trung trong những năm chiến tranh.</ref> và giữ chức Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957 đến năm 1963<ref>Ông là viện trưởng thứ hai của Đại học Huế, sau giáo sư Nguyễn Quang Trình giữ chức viện trưởng từ 1/3/1957--7/1957</ref>. Tháng 8 năm 1963, Cao Văn Luận bị chính quyền Ngô Đình Diệm cách chức viện trưởng vì cho rằng ông không có biện pháp cứng rắn đối phó với sinh viên Phật giáo đấu tranh chống chế độ.<ref>Linh mục Cao Văn Luận là người thân cận của chính phủ Diệm nhưng linh mục có tinh thần độc lập</ref>
Năm 1957, Cao Văn Luận cùng một số trí thức miền Trung vận động thành lập [[Viện Đại học Huế]]<ref>Viện Đại học Huế là một cơ sở Đại học đầu tiên ở miền Trung trong những năm chiến tranh.</ref> và giữ chức Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957 đến năm 1963<ref>Ông là viện trưởng thứ hai của Đại học Huế, sau giáo sư Nguyễn Quang Trình giữ chức viện trưởng từ 1/3/1957--7/1957</ref>. Tháng 8 năm 1963, Cao Văn Luận bị chính quyền Ngô Đình Diệm cách chức viện trưởng vì cho rằng ông không có biện pháp cứng rắn đối phó với sinh viên Phật giáo đấu tranh chống chế độ.<ref>Linh mục Cao Văn Luận là người thân cận của chính phủ Diệm nhưng linh mục có tinh thần độc lập</ref>

Phiên bản lúc 06:20, ngày 20 tháng 10 năm 2016

Cao Văn Luận (1908-1986) là giáo sư, linh mục Công giáo, người tham gia sáng lập và là viện trưởng Viện Đại học Huế, tác giả hồi ký Bên giòng lịch sử 1940-1965.

Tiểu sử

Ông sinh vào năm 1908, tại Hà Tĩnh, trong một gia đình Công giáo lâu đời. Thuở nhỏ tu học tại chủng viện Xuân Bích, Hà Nội. Khoảng năm 1939, thụ phong linh mục, sau đó du học tại Pháp. Năm 1947, Cao Văn Luận về nước làm cha xứ tại một họ đạo ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Năm 1949, Ông vào Huế dạy triết học tại trường Quốc học. Ông có mối quan hệ xã hội sâu rộng trong và ngoài nước.

Năm 1957, Cao Văn Luận cùng một số trí thức miền Trung vận động thành lập Viện Đại học Huế[1] và giữ chức Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957 đến năm 1963[2]. Tháng 8 năm 1963, Cao Văn Luận bị chính quyền Ngô Đình Diệm cách chức viện trưởng vì cho rằng ông không có biện pháp cứng rắn đối phó với sinh viên Phật giáo đấu tranh chống chế độ.[3]

Sau Cuộc đảo chính tại Việt Nam Cộng hòa năm 1963, Cao Văn Luận quay lại làm viện trưởng Đại học Huế trong một thời gian ngắn từ 11/1963- 9/1964, sau đó ông giảng dạy tại Đại học Văn khoa Sài Gòn cho đến năm 1975. Ông mất ngày 20 tháng 7 năm 1986 tại Hoa Kỳ.

Tác phẩm

  • Tâm lí học (1958)
  • Luận lí học và Siêu hình học (1958)
  • Đạo đức học (1959)
  • Danh từ triết học (1959)
  • Henri Bergson (1961)
  • Bên giòng lịch sử - Hồi ký 1940 -1965 (1971)

Chú thích

  1. ^ Viện Đại học Huế là một cơ sở Đại học đầu tiên ở miền Trung trong những năm chiến tranh.
  2. ^ Ông là viện trưởng thứ hai của Đại học Huế, sau giáo sư Nguyễn Quang Trình giữ chức viện trưởng từ 1/3/1957--7/1957
  3. ^ Linh mục Cao Văn Luận là người thân cận của chính phủ Diệm nhưng linh mục có tinh thần độc lập

Liên kết ngoài