Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Maathorneferure”
Không có tóm lược sửa đổi |
n đã xóa Thể loại:Ai Cập cổ đại dùng HotCat |
||
Dòng 46: | Dòng 46: | ||
{{tham khảo}} |
{{tham khảo}} |
||
[[Thể loại:Ai Cập cổ đại]] |
|||
[[Thể loại:Vương triều thứ Mười chín của Ai Cập]] |
[[Thể loại:Vương triều thứ Mười chín của Ai Cập]] |
||
[[Thể loại:Vương hậu Ai Cập]] |
[[Thể loại:Vương hậu Ai Cập]] |
Phiên bản lúc 18:11, ngày 2 tháng 5 năm 2018
Maathorneferure | ||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tượng của Maathorneferure tại Tanis | ||||||||||||||
Thông tin chung | ||||||||||||||
Hôn phối | Ramesses II | |||||||||||||
| ||||||||||||||
Thân phụ | Hattusili III | |||||||||||||
Thân mẫu | Puduhepa |
Maathorneferure là một vương hậu Ai Cập. Bà là một trong 7 hoàng hậu được sắc phong của pharaon Ramesses II[1].
Thân thế
Maathorneferure có xuất thân cao quý. Bà là con gái của Hattusili III, vua người Hittite và hoàng hậu Puduhepa. Bà thành hôn với Ramesses II vào năm trị vì thứ 34 của ông (lúc này Ramesses đã khoảng 60 tuổi) và được tấn phong làm Chánh cung hoàng hậu. Tên thật của bà không được sử sách ghi lại, và tên Ai Cập của bà có nghĩa là "Người nhìn thấy Horus, sự huy hoàng vô hình của Ra".
Cuộc sống
Sự bất hòa giữa Ai Cập và đế chế Hittite ngày càng tăng vào thời kỳ suy thoái của vương quốc Mitanni, và cuộc hôn nhân giữa công chúa Maathorneferure với Ramesses là kết quả của hiệp ước hòa bình giữa 2 vương triều được ký vào 13 năm trước đây. Một tấm bia đá ghi lại cuộc hôn nhân này như sau: "Con gái của vị lãnh tụ vĩ đại, Khate, đã được trao cho quân thù ..."[2].
Nàng công chúa Hittite đã phải rời Hattusa, kinh đô của họ, được hộ tống bởi một đoàn tùy tùng cùng với những trang sức quý giá, gia súc làm của hồi môn. Một lời nhắn được gửi tới pharaon sau khi đoàn người vừa bước vào địa phận Ai Cập: "Họ đã vượt qua những ngọn núi cao đầy hiểm trở để đến được biên giới của Ngài". Ramesses đã cho thết đãi yến tiệc để tiếp đón công chúa và đoàn hộ tống[3].
Theo những gì được biết, Ramesses coi trọng những kho báu quý giá trong đống của hồi môn hơn cả người vợ mới của mình[4]. Hoàng hậu Maathorneferure ngự tại Mer-wer (Gurob, Faiyum ngày nay). Bà đã hạ sinh cho ông một người con nhưng đứa bé đã chết ngay sau đó[5].
Một cuộn giấy được tìm thấy tại Gurob, trong đó có đoạn nhắc đến Maathorneferure: "..., người vợ của vua, Maathorneferure, con gái của người cai trị vĩ đại Khatii, ...". Tại Tanis, hình ảnh của Maathorneferure được khắc dưới chân một bức tượng của Ramesses cùng với khung tên của bà, đã bị vỡ gần như hoàn toàn.
Tham khảo
- Ramesside Inscriptions, Kenneth Anderson Kitchen
- Letters of the Great Kings of the Ancient Near East: The Royal Correspondence of the Late Bronze Age, Trevor Robert Bryce, 117ff
- The Kingdom Of The Hittites, Trevor Robert Bryce, tr.283
Chú thích
- ^ Dodson, Aidan; Hilton, Dyan (2004), The Complete Royal Families of Ancient Egypt, Thames & Hudson, tr.140 ISBN 978-0-5000-51283
- ^ Marriage Stela, J. H. Breasted, Ancient Records of Egypt, phần 3, §415ff
- ^ Wilkinson, Toby (2011), The Rise and Fall of Ancient Egypt, Bloomsbury, tr.340 - 341 ISBN 978-1-4088-1002-6
- ^ “Gurob papyrus”.
- ^ Tyldesley, Joyce (2001), Egypt's Golden Empire: The Age of the New Kingdom, Headline Book Publishing, ISBN 978-0-7472-51606