Amphiprion perideraion

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Amphiprion perideraion
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Ovalentaria
Họ (familia)Pomacentridae
Phân họ (subfamilia)Amphiprioninae
Chi (genus)Amphiprion
Loài (species)A. perideraion
Danh pháp hai phần
Amphiprion perideraion
Bleeker, 1855
Danh pháp đồng nghĩa
  • Amphiprion rosenbergii Bleeker, 1859
  • Amphiprion amamiensis Mori, 1966

Amphiprion perideraion, còn có tên thông thườngcá khoang cổ tím[2], là một loài cá hề thuộc chi Amphiprion trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1855.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Danh từ định danh của loài trong tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa là "vòng cổ", hàm ý đề cập đến dải sọc phía sau mắt của chúng[3].

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Từ quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), phạm vi của A. perideraion trải dài đến hầu hết vùng biển các nước Đông Nam Á và nhiều đảo quốc thuộc châu Đại Dương (xa nhất ở phía đông là đến quần đảo Samoa), phía nam đến Tây Úcrạn san hô Great Barrier, và cả quần đảo Cocos (Keeling)đảo Giáng Sinh[1]. Nghiên cứu di truyền cho thấy, quần thểbiển Java có sự khác biệt với phần còn lại của quần đảo Mã Lai[4].

A. perideraion sống cộng sinh với 4 loài hải quỳ, là Heteractis magnifica (thường thấy nhất), Heteractis crispa, Macrodactyla doreensisStichodactyla gigantea[5]. Chúng được quan sát gần các rạn san hô ngoài khơi và trong các đầm phá ở độ sâu đến ít nhất là 38 m[1].

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

A. perideraion có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 10 cm[5]. Loài cá hề này có màu hồng đến màu cam phớt hồng; các vây màu trắng nhạt. Có một dải sọc trắng ở sau đầu, và một dải sọc trắng dày hơn từ đỉnh đầu, ngay giữa mắt kéo dài dọc theo gốc vây lưng. Cá đực trưởng thành có viền cam trên vây lưng mềm cũng như rìa trên và dưới của vây đuôi[6].

Sọc trắng sau đầu giúp phân biệt A. perideraion với hai loài cá hề khác là Amphiprion akallopisosAmphiprion sandaracinos[6].

Số gai ở vây lưng: 9–10; Số tia vây ở vây lưng: 16–17; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 12–13[5].

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của A. perideraionđộng vật phù du, một số loài thủy sinh không xương sốngtảo[7].

A. perideraion là một loài lưỡng tính tiền nam (cá cái trưởng thành đều phải trải qua giai đoạn là cá đực) nên cá đực thường có kích thước nhỏ hơn cá cái. Một con cá cái sẽ sống thành nhóm cùng với một con đực lớn (đảm nhận chức năng sinh sản) và nhiều con non nhỏ hơn[7]. Trứng được cá đực lớn bảo vệ và chăm sóc đến khi chúng nở[5].

Ở một rạn san hô ngoài khơi Okinawa (Nhật Bản), cả A. perideraionAmphiprion clarkii cùng sống cộng sinh với H. crispa. Những nhóm cá thể trưởng thành của hai loài thường không chia sẻ vật chủ với nhau. Ngược lại, các nhóm A. perideraion đang lớn và cá con lại luôn sống chung với A. clarkii[8]. Ở những nhóm này, khả năng sinh sản của A. perideraion lại bị ức chế bởi A. clarkii (một loài có kích thước lớn hơn), mặc dù A. perideraion đực trưởng thành đã chuyển đổi thành cá cái. Sau khi tất cả các thành viên của A. clarkii rời đi, A. perideraion trưởng thành mới có thể bắt đầu sinh sản[8].

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

A. perideraion được đánh bắt bởi những người thu mua cá cảnh và cũng đã được nhân giống nuôi nhốt[1].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d Jenkins, A.; Allen, G.; Myers, R.; Yeeting, B.; Carpenter, K.E. (2017). Amphiprion perideraion. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2017: e.T188340A1860821. doi:10.2305/IUCN.UK.2017-2.RLTS.T188340A1860821.en. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ Hà Lê Thị Lộc; Nguyễn Thị Quỳnh Ngọc (2007). “Sinh trưởng và dinh dưỡng của cá Khoang cổ tím (Amphiprion perideraion Bleeker) vùng biển Khánh Hòa” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Quốc gia: 277–290.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  3. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Series OVALENTARIA (Incertae sedis): Family POMACENTRIDAE”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2021.[liên kết hỏng]
  4. ^ Dohna, Tina A.; Timm, Janne; Hamid, Lemia; Kochzius, Marc (2015). “Limited connectivity and a phylogeographic break characterize populations of the pink anemonefish, Amphiprion perideraion, in the Indo-Malay Archipelago: inferences from a mitochondrial and microsatellite loci”. Ecology and Evolution. 5 (8): 1717–1733. doi:10.1002/ece3.1455. PMID 25937914.
  5. ^ a b c d Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Amphiprion perideraion trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2021.
  6. ^ a b Daphne Gail Fautin, Gerald R. Allen (1997). Anemone fishes and their host sea anemones: a guide for aquarists and divers. Perth, Tây Úc: Western Australian Museum. ISBN 978-0730983651. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2021.
  7. ^ a b G. R. Allen (2001). K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Volume 5. Bony Fishes Part 3 (Menidae to Pomacentridae) (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3351. ISBN 978-9251045879.
  8. ^ a b Hattori, Akihisa. “Social and mating systems of the protandrous anemonefish Amphiprion perideraion under the influence of a larger congener”. Austral Ecology. 25 (2): 187–192. doi:10.1046/j.1442-9993.2000.01035.x.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]