Cirrhilabrus pylei

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cirrhilabrus pylei
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Cirrhilabrus
Loài (species)C. pylei
Danh pháp hai phần
Cirrhilabrus pylei
Allen & Randall, 1996

Cirrhilabrus pylei là một loài cá biển thuộc chi Cirrhilabrus trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1996.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh pylei được đặt theo tên của Richard L. Pyle (s. 1967), nhà ngư học kiêm thợ lặn người Canada, hiện đang làm việc tại Hawaii, là người đã thu thập mẫu định danh của loài cá này.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

C. pylei được ghi nhận tại các nhóm đảo phía đông Indonesia (SulawesiBali đến Tây Papua) và các đảo quốc thuộc Melanesia (Papua New Guinea, quần đảo SolomonVanuatu).[1] C. pylei sống gần các rạn san hô trên nền đá vụn, độ sâu khoảng 55–110 m.[3][4]

Những mẫu vật được cho là biến dị kiểu hình của C. pyleiPhilippines đã được công nhận là một loài hợp lệ, là Cirrhilabrus briangreenei.[4][5]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. pylei là 9 cm.[3] Cá cái có màu hồng cam; đầu có nhiều vệt sọc nhỏ; đốm đen nhỏ ở vây lưng trước và cuống đuôi. Mống mắt có màu đỏ tươi.

Cá đực có nhiều màu sắc khác nhau, từ màu be, cho đến màu cam, cũng như màu xám. Đầu có nhiều vệt xanh lam thẫm. Vây lưng trong mờ, phớt đỏ, chằng chịt các vệt gợn sóng màu xanh và vàng với một đốm nhỏ màu xanh thẫm ở phía trước (không có đốm đen lớn ở giữa vây như C. briangreenei). Vây hậu môn tương tự vây lưng nhưng ít các vệt xanh-vàng hơn. Vây đuôi đặc trưng bởi dải màu ngọc lam ở rìa (đen ở C. briangreenei). Vây bụng của chúng rất dài.[6]

Cá đực mùa sinh sản ửng vàng ở hai bên thân, các vây cũng trở nên đỏ hơn, đặc biệt là dải xanh ở rìa vây đuôi trở nên sáng rực.[4]

Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.[3]

Phân loại học[sửa | sửa mã nguồn]

C. pyleiloài chị em gần nhất với Cirrhilabrus katoiCirrhilabrus briangreenei.[6]

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

C. pylei được thu thập trong ngành buôn bán cá cảnh nhưng không thường xuyên vì chúng sống ở vùng nước khá sâu, được bán với giá 75–100 USD một con tại Hoa Kỳ.[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c Rocha, L.; Suharti, S. & Pollard, D. (2010). Cirrhilabrus pylei. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T187580A8574054. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187580A8574054.en. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Order Labriformes: Family Labridae (a-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2021.
  3. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cirrhilabrus pylei trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  4. ^ a b c Tea, Yi-Kai; Pyle, Richard L.; Rocha, Luiz A. (2020). “A New Species of Fairy Wrasse (Teleostei: Labridae: Cirrhilabrus) from Mesophotic Coral Ecosystems of the Verde Island Passage, Philippines” (PDF). Copeia. 108 (1): 91. doi:10.1643/ci-19-297. ISSN 0045-8511.
  5. ^ Jake Adams (24 tháng 2 năm 2020). “Cirrhilabrus briangreenei, an Old Aquarium Fish is a New Species of Fairy Wrasse”. Reef Builders. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2021.
  6. ^ a b Lemon T. Y. K. (3 tháng 8 năm 2015). “3.1 Fairy Wrasses: The rubrimarginatus group”. Reef Builders. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2021.