Dreamfall: The Longest Journey

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Dreamfall
Nhà phát triểnFuncom
Nhà phát hànhAspyr Media
Micro Application
Empire Interactive
Giám đốcRagnar Tørnquist Sửa đổi tại Wikidata
Thiết kếRagnar Tørnquist
Dòng trò chơiThe Longest Journey Sửa đổi tại Wikidata
Công nghệShark 3D
Nền tảngWindows, Xbox
Phát hànhPC

Steam

Xbox

Thể loạiHành động / Phiêu lưu
Chế độ chơiChơi đơn

Dreamfall: The Longest Journey (Drømmefall: Den lengste reisen) là một game hành động / phiêu lưu được ra mắt dành cho WindowsXbox vào 17 tháng 4 năm 2006. Game là phần tiếp theo của game The Longest Journey của Funcom và lấy bối cảnh 10 năm sau sự kiện của phần đầu. Vào 1 tháng 3 năm 2007, một loạt game gồm 3 phần gọi là Dreamfall Chapters được cho là phần tiếp theo của game đã được thông báo,[1] Funcom có kế hoạch xa hơn để tạo ra một games trực tuyến nhiều người chơi được đặt trong thế giới The Longest Journey.[2]

Cốt truyện[sửa | sửa mã nguồn]

Tóm tắt[sửa | sửa mã nguồn]

Trong The Longest Journey, người chơi nhận ra rằng Trái Đất có hai thế giới riêng biệt...Cả hai chưa từng thấy lẫn nhau nhưng cùng tồn tại với nhau song song. Stark -thế giới của khoa học nơi công nghệ là động lực chính cho những người sống ở đây. Vì vây những người ở Stark cực kì hiện đại. Còn Arcadia -là thế giới của phép thuật nơi mọi thứ đều bắt đầu với nhũng hoạt động kì ảo.April Ryan, nhân vật chính của The Longest Journey là một sinh viên mỹ thuật sống ở Stark trước khi cô trở thành một vị cứu tinh bất đắc dĩ của cả hai thế giới.

Về phía các bạn của cô ở Stark, sự biết mất đột ngột của April tại thời điểm mà cô đã đi qua Arcadia tiếp tục trở thành một bí ẩn gây bối rối họ. Cũng tại thời điểm đó, thế giới trở thành nạn nhân của một tai họa được gọi là Sự sụp đổ, khi công nghệ bất thình lình tụt dốc và tất cả cố gắng để liên lạc với dân cư trên Trái Đất đều bị cắt đứt. Trong vòng 10 năm sau, nhân loại cố gắng phục hồi sau những biến cố trầm trọng nhưng thế giới đã thay đổi một cách đáng ngạc nhiên.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Funcom awarded grant from Norwegian Film Fund”. Funcom. ngày 1 tháng 3 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày tháng= (trợ giúp)
  2. ^ “Funcom 2006 Annual Report”. Funcom. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2007.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Encyclopedic[sửa | sửa mã nguồn]

Fan-sites[sửa | sửa mã nguồn]