Hôn nhân cùng giới ở Hoa Kỳ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Một cặp mới cưới ở Minnesota ngay sau hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới ở phạm vi quốc gia

Hôn nhân cùng giới tại Hoa Kỳ mở rộng từ một bang năm 2004 đến năm mươi tiểu bang vào năm 2015 thông qua nhiều phán quyết của tòa án tiểu bang, luật tiểu bang, phiếu bầu trực tiếp và phán quyết của tòa án liên bang. Hôn nhân cùng giới cũng được gọi là hôn nhân đồng tính luyến ái, trong khi tình trạng chính trị trong đó kết hôn của các cặp đôi cùng giới và kết hôn của các cặp vợ chồng khác giới được thừa nhận là bình đẳng theo luật được gọi là bình đẳng hôn nhân. Năm mươi tiểu bang mỗi quốc gia có luật hôn nhân riêng biệt, phải tuân thủ các phán quyết của Tòa án tối cao Hoa Kỳ công nhận hôn nhânquyền cơ bản được đảm bảo bởi cả Điều khoản quy trình đáo hạnĐiều khoản bảo vệ bình đẳng của Sửa đổi thứ mười bốn Hiến pháp Hoa Kỳ, được thành lập lần đầu tiên vụ kiện quyền dân sự mang tính bước ngoặt vào năm 1967 trong trường hợp của Loving v. Virginia.

Cuộc vận động nhân quyền ủng hộ hôn nhân không phân biệt giới tính hay khuynh hướng tình dục bắt đầu vào những năm 1970.[1] Vào năm 1972, luật Baker v. Nelson bị lật đổ đã thấy Tòa án tối cao Hoa Kỳ từ chối tham gia. Vấn đề này trở nên nổi bật từ khoảng năm 1993, khi Tòa án Tối cao Hawaii cai trị luật Baehr v. Lewin rằng nó đã vi hiến theo hiến pháp của tiểu bang để nhà nước hủy bỏ hôn nhân trên cơ sở giới tính. Quyết định đó dẫn đến các hành động của liên bang và nhà nước để kết hôn một cách rõ ràng trên cơ sở giới tính để ngăn chặn cuộc hôn nhân của các cặp vợ chồng cùng giới không được luật công nhận, nhất là DOMA. Năm 2003, Tòa án Tư pháp Tối cao Massachusetts cai trị trong Goodridge v. Sở Y tế Công cộng rằng nó đã vi hiến theo hiến pháp của tiểu bang cho nhà nước để kết hôn trái với hôn nhân trên cơ sở quan hệ tình dục. Từ năm 2004 đến năm 2015, khi thủy triều dư luận tiếp tục tiến tới hỗ trợ hôn nhân cùng giới, nhiều phán quyết của tòa án tiểu bang, luật pháp tiểu bang, phiếu phổ thông trực tiếp (trưng cầu dân ýsáng kiến), và phán quyết của tòa án liên bang đã thiết lập hôn nhân cùng giới 36 tiểu bang.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “The Same-Sex Couple Who Got a Marriage License in 1971”. The New York Times. ngày 16 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2018.