I-11 (tàu ngầm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 125
Xưởng đóng tàu Kawasaki, Kobe
Đặt lườn 10 tháng 4, 1939
Hạ thủy 28 tháng 2, 1941
Nhập biên chế 16 tháng 5, 1942
Số phận Mất tích sau ngày 11 tháng 1, 1944
Xóa đăng bạ 30 tháng 4, 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type A1
Trọng tải choán nước
  • 2.966 tấn (2.919 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 4.195 tấn (4.129 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 113,7 m (373 ft 0 in) chung [1]
Sườn ngang 9,5 m (31 ft 2 in)[1]
Mớn nước 5,3 m (17 ft 5 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.400 hp (1.800 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 16.000 nmi (30.000 km; 18.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi) [1]
  • 60 nmi (110 km; 69 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph) (ngầm)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 114
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay
Lịch sử phục vụ
Một phần của:
  • Hải đội Tàu ngầm 3 [3]
  • Hải đội Tàu ngầm 1
Chỉ huy:
  • Tsuneo Shichiji[3]
  • 16 tháng 5, 1942 – 7 tháng 7, 1943
  • Meiji Tagami
  • 7 tháng 7, 1943 – 10 tháng 10, 1943
  • Hisaichi Izu
  • 10 tháng 10, 1943 – tháng 1, 1944

I-11 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type A (巡潜甲型潜水艦 Junsen Kō-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã tham gia Chiến dịch Guadalcanal và tuần tra ngoài khơi Australia, New Caledoniaquần đảo Ellice, từng gây hư hại nặng cho tàu tuần dương hạng nhẹ Australia HMAS Hobart trước khi bị mất tích trong chuyến tuần tra thứ sáu vào năm 1944.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu ngầm Type A1 là một phiên bản của lớp Junsen 3 (J3) dẫn trước, với tầm xa hoạt động vượt trội, thiết bị hỗ trợ máy bay được cải tiến, và được trang bị để hoạt động như soái hạm của hải đội tàu ngầm.[4] Chúng có trọng lượng choán nước 2.966 tấn (2.919 tấn Anh) khi nổi và 4.195 tấn (4.129 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 113,7 m (373 ft 0 in), mạn tàu rộng 9,5 m (31 ft 2 in) và mớn nước sâu 5,3 m (17 ft 5 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[4] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 114 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.200 mã lực (895 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 19 hải lý trên giờ (35 km/h; 22 mph) và 8,25 hải lý trên giờ (15,28 km/h; 9,49 mph) khi lặn dưới nước,[5] tầm xa hoạt động 16.000 hải lý (30.000 km; 18.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 90 nmi (170 km; 100 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[6]

Type A1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 18 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai khẩu pháo phòng không 25 mm Type 96 nòng đôi.[6] Không giống như Type J3 dẫn trước, hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[6]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

I-11 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 125 tại xưởng tàu của hãng KawasakiKobe vào ngày 10 tháng 4, 1939.[3][7] Nó được đổi tên thành I-11,[3][7] đồng thời được hạ thủy cùng vào ngày 28 tháng 2, 1941,[3][7] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 16 tháng 5, 1942,[3][7] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Shichiji Tsuneo.[3]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1942[sửa | sửa mã nguồn]

Vào lúc nhập biên chế, I-11 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure[7] đồng thời đảm nhiệm vai trò soái hạm của Hải đội Tàu ngầm 3 thay phiên cho chiếc tàu ngầm I-8.[7] Nó đi đến Kure vào cuối tháng 5, 1942 để hoàn tất việc chuẩn bị, rồi đón lên tàu một thủy phi cơ Yokosuka E14Y ("Glen") để thực hành phóng và thu hồi máy bay.[7] Nó rời Kure vào ngày 7 tháng 6 để đi sang Kwajalein, đến nơi vào ngày 16 tháng 6,[7] nơi con tàu tiếp tục thực hành phóng và thu hồi chiếc E14Y.[7] Đến ngày 8 tháng 7, nó đón lên tàu Chuẩn đô đốc Chimaki Kono, Tư lệnh Hải đội Tàu ngầm 3, khi ông chuyển cờ hiệu của mình từ chiếc tàu tiếp liệu tàu ngầm Yasukumi Maru. Tháp tùng đô đốc Kono còn có sáu sĩ quan tham mưu cùng một thông tín viên báo Yomiuri Shimbun.[7]

Chuyến tuần tra thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]

1944[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ sáu[sửa | sửa mã nguồn]

I-11 rời Truk vào ngày 21 tháng 12, 1943 với một thủy phi cơ Yokosuka E14Y1 ("Glen") trên tàu cho chuyến tuần tra thứ sáu tại khu vực phụ cận các quần đảo Ellice, Samoa, FijiTonga.[7] Vào ngày 31 tháng 12, nó trinh sát ngầm Funafuti thuộc quần đảo Ellice, phát hiện hai thiết giáp hạm, hai tàu chiến cỡ lớn và hai tàu tuần dương tại khu vực này.[7] Đến ngày 11 tháng 1, 1944, nó gửi báo cáo từ khu vực Funafuti, và được mệnh lệnh tấn công các tàu chiến Đồng Minh tại khu vực phụ cận quần đảo Ellice và Samoa, cũng như trinh sát lại khu vực Funafuti một lần nữa vào đầu tháng 2.[7][8] Tuy nhiên sau đó I-11 mất liên lạc với căn cứ.

Bị mất[sửa | sửa mã nguồn]

Số phận sau cùng của I-11 hiện vẫn còn là một bí ẩn. Một nguồn cho rằng tàu khu trục Hoa Kỳ USS Nicholas (DD-449) đã đánh chìm nó vào ngày 17 tháng 2, 1944,[7][9] nhưng giả thuyết này có thể nhầm lẫn I-11 với tàu ngầm I-175 bị đánh chìm ngoài khơi đảo san hô Wotje thuộc quần đảo Marshall vào ngày 4 tháng 2, 1944.[10] Nghiên cứu của phía Nhật Bản sau chiến tranh nghiêng về giả thuyết I-11 có thể mất do trúng thủy lôi được rải từ tàu rải mìn USS Terror (CM-5).[7]

Vào ngày 20 tháng 3, 1944, Hải quân Nhật Bản công bố I-11 có thể đã bị mất về phía Nam Funafuti[7] với tổn thất toàn bộ 114 thành viên thủy thủ đoàn.[3] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 30 tháng 4, 1944.[7]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type A1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b c d e f g h “I-11 ex No-138”. ijnsubsite.com. 2018. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  4. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 188.
  5. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  6. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 101.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (1 tháng 9 năm 2016). “IJN Submarine I-11: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ Boyd & Yoshida (2002), tr. 209.
  9. ^ Rohwer, Jürgen; Hümmelchen, Gerhard. “Seekrieg 1943, Februar”. Württembergische Landesbibliothek Stuttgart (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  10. ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (12 tháng 6 năm 2010). “IJN Submarine I-11: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]