I-175 (tàu ngầm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
I-75 vào cuối tháng 10, 1941.
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi I-74
Đặt hàng 1934
Xưởng đóng tàu Mitsubishi, Kobe
Đặt lườn 1 tháng 11, 1934
Hạ thủy 16 tháng 9, 1937
Nhập biên chế 8 tháng 12, 1938
Đổi tên I-175 on 20 tháng 5, 1942
Số phận Bị các tàu khu trục USS CharretteUSS Fair đánh chìm, 4 tháng 2, 1944
Xóa đăng bạ 10 tháng 7, 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu tàu ngầm lớp Kaidai (Kiểu VIb)
Trọng tải choán nước
  • 1.810 tấn Anh (1.839 t) (nổi)
  • 2.564 tấn Anh (2.605 t) (ngầm)
Chiều dài 105 m (344 ft 6 in)
Sườn ngang 8,2 m (26 ft 11 in)
Mớn nước 4,57 m (15 ft 0 in)
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 10.000 nmi (19.000 km) ở tốc độ 16 kn (30 km/h; 18 mph) (nổi) [1]
  • 65 nmi (120 km) ở tốc độ 3 kn (5,6 km/h; 3,5 mph) (ngầm) [1]
Độ sâu thử nghiệm 75 m (246 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 70 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

I-75, sau đổi tên thành I-175, là một tàu ngầm tuần dương[1] Lớp Kaidai thuộc phân lớp Kaidai VIb nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1938. Nó đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai, hỗ trợ cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng, tham gia Trận Midway cùng các chiến dịch Guadalcanal, quần đảo AleutGilbert và Marshall, cũng như hoạt động ngoài khơi Australia, cho đến khi bị các tàu khu trục USS CharretteUSS Fair đánh chìm tại quần đảo Marshall vào tháng 2, 1944. Chiến công nổi bật nhất của I-175 là đã đánh chìm tàu sân bay hộ tống USS Liscome Bay vào ngày 24 tháng 11, 1943.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Phân lớp tàu ngầm Kaidai VIb về căn bản lặp lại thiết kế của phân lớp Kaidai VIa. Chúng có trọng lượng choán nước 1.814 tấn (1.785 tấn Anh) khi nổi và 2.605 tấn (2.564 tấn Anh) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 105 m (344 ft 6 in), mạn tàu rộng 8,2 m (26 ft 11 in) và mớn nước sâu 4,57 m (15 ft 0 in). Con tàu có thể lặn sâu 75 m (246 ft) và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 70 sĩ quan và thủy thủ.[2]

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất 4.500 mã lực phanh (3.356 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện 900 mã lực (671 kW).Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph) khi nổi và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn.[3] Khi Kaidai VIb di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động 10.000 hải lý (19.000 km; 12.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph), và có thể lặn xa 65 nmi (120 km; 75 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[4]

Lớp Kaidai VIb có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang tổng cộng 14 ngư lôi. Vũ khi trên boong tàu bao gồm hải pháo 12 cm (4,7 in)/45 caliber, cùng hai súng máy 13,2 mm (0,52 in) nòng đơn phòng không.[4]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Trong khuôn khổ Chương trình Vũ trang Hải quân Bổ sung thứ hai năm 1934, I-75 được đặt lườn tại xưởng đóng tàu của hãng MitsubishiKobe vào ngày 1 tháng 11, 1934.[5][6] Nó được hạ thủy vào ngày 16 tháng 9, 1937,[5][6] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 18 tháng 12, 1938.[1][5][6]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1939 - 1940[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày nhập biên chế, I-75 được điều về Quân khu Hải quân Kure và gia nhập Đội tàu ngầm 11,[5][6] một đơn vị dưới quyền Hải đội Tàu ngầm 2 trực thuộc Đệ Nhị hạm đội, thuộc thành phần Hạm đội Liên hợp.[5] Đội tàu ngầm 11 được điều động gia nhập Hải đội Tàu ngầm 3 trực thuộc Đệ Nhị hạm đội vào ngày 15 tháng 11, 1939.[5] I-75 khởi hành từ Okinawa vào ngày 27 tháng 3, 1940 để cùng các tàu ngầm I-68, I-69, I-70, I-73I-74 tham gia chuyến đi huấn luyện tại vùng biển phía Nam Trung Quốc; và sau khi hoàn tất sáu chiếc tàu ngầm đã đi đến Takao (nay là Cao Hùng), Đài Loan vào ngày 2 tháng 4, 1940.[5][7][8][9][10][11] Vào ngày 11 tháng 10, 1940, I-75 cùng với 97 tàu chiến khác và 527 máy bay hải quân Nhật Bản tập trung tại vịnh Yokohama để tham gia cuộc duyệt binh hạm đội lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản, nhân kỷ niệm 2.600 năm đăng quang của Thiên hoàng Jimmu.[5][12][13] Sau đó Hải đội Tàu ngầm 3 được điều động sang Đệ Lục hạm đội, cùng thuộc thành phần Hạm đội Liên hợp, vào ngày 15 tháng 11, 1940.[5]

1941[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f Jentschura 1976, tr. 172
  2. ^ Carpenter & Polmar 1986, tr. 96
  3. ^ Chesneau 1980, tr. 198
  4. ^ a b Bagnasco 1977, tr. 183
  5. ^ a b c d e f g h i “I-175”. ijnsubsite.com. 25 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
  6. ^ a b c d Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2010). “IJN Submarine I-175: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
  7. ^ “I-168”. ijnsubsite.com. 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  8. ^ “I-169”. ijnsubsite.com. 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  9. ^ “I-70”. ijnsubsite.com. 16 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  10. ^ “I-73”. ijnsubsite.com. 5 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  11. ^ “I-174”. ijnsubsite.com. 25 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
  12. ^ Tully, Athony (19 tháng 5 năm 2014). “IJN Seaplane Carrier CHITOSE: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2021.
  13. ^ “2012 Fleet Review” (PDF). Japan Defense Focus. tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2019.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Abbey, Tony; Clifford, Shirley (27 tháng 12 năm 1980). “The Attack on the Dureenbee”. The Canberra Times. tr. 11. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2017 – qua National Library of Australia.
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl (2012). The Japanese Submarine Force in World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-1557500151.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869-1945. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-893-X.
  • Rohwer, Jürgen (2005). Chronology of the War at Sea 1939–1945: The Naval History of World War Two . Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-59114-119-2.
  • Sturma, Michael (2011). Surface and Destroy: The Submarine Gun War in the Pacific. Lexington, Ky.: University Press of Kentucky. ISBN 978-0-8131-2996-9.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]