I-70 (tàu ngầm Nhật)
Tàu ngầm chị em I-68, một chiếc lớp Kaidai VI tiêu biểu
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đế quốc Nhật Bản | |
Tên gọi | I-70 |
Xưởng đóng tàu | Xưởng vũ khí Hải quân Sasebo, Sasebo |
Đặt lườn | 25 tháng 1, 1933 |
Hạ thủy | 14 tháng 6, 1934 |
Hoàn thành | 9 tháng 11, 1935 |
Nhập biên chế | 9 tháng 11, 1935 |
Xuất biên chế | 15 tháng 12, 1938 |
Tái biên chế | đầu năm 1940 |
Cảng nhà | Kure |
Số phận | Bị máy bay SBD-2 Dauntless của tàu sân bay USS Enterprise đánh chìm, 10 tháng 12, 1941 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | tàu ngầm lớp Kaidai (Kiểu VIa) |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 104,7 m (343 ft 6 in) |
Sườn ngang | 8,2 m (26 ft 11 in) |
Mớn nước | 4,58 m (15 ft 0 in) |
Công suất lắp đặt |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Tầm hoạt động | 341 tấn nhiên liệu |
Độ sâu thử nghiệm | 70 m (230 ft) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 68 sĩ quan và thủy thủ |
Vũ khí |
|
I-70 là một tàu ngầm tuần dương[1] Lớp Kaidai thuộc phân lớp Kaidai VIa nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1935. Đang khi hỗ trợ cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào giai đoạn mở màn của Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó bị đánh chìm vào ngày thứ ba của cuộc xung đột, do trúng bom từ máy bay ném bom bổ nhào SBD-2 Dauntless của tàu sân bay USS Enterprise. I-70 trở thành tàu ngầm hạm đội đầu tiên bị đánh chìm tại Thái Bình Dương trong chiến tranh.
Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]
Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]
Phân lớp tàu ngầm Kaidai VIa là phiên bản được cải tiến từ phân lớp Kaidai V với tốc độ đi nổi nhanh hơn và lặn sâu hơn. Chúng có trọng lượng choán nước 1.814 tấn (1.785 tấn Anh) khi nổi và 2.479 tấn (2.440 tấn Anh) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 104,7 m (343 ft 6 in), mạn tàu rộng 8,2 m (26 ft 11 in) và mớn nước sâu 4,57 m (15 ft 0 in). Con tàu có thể lặn sâu 75 m (246 ft) và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 68 sĩ quan và thủy thủ.[2]
Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất 4.500 mã lực phanh (3.356 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện 900 mã lực (671 kW).[3] Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph) khi nổi và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn. Khi Kaidai VIa di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph), và có thể lặn xa 65 nmi (120 km; 75 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[4]
Lớp Kaidai VIa có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang tổng cộng 14 ngư lôi. Vũ khi trên boong tàu bao gồm hải pháo 10 cm (3,9 in)/50 caliber lưỡng dụng (chống hạm và phòng không), cùng một súng máy 13,2 mm (0,52 in) phòng không.[4]
Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]
Trong khuôn khổ Chương trình Vũ trang Hải quân Bổ sung thứ nhất năm 1931, I-70 được đặt lườn tại Xưởng vũ khí Hải quân Sasebo ở Sasebo vào ngày 25 tháng 1, 1933.[5][6] Nó được hạ thủy vào ngày 14 tháng 6, 1934,[6] trong buổi lễ có sự hiện diện của Phó đô đốc Yonai Mitsumasa, sẽ đảm nhiệm Bộ trưởng Hải quân giai đoạn 1937-1939 và Thủ tướng từ tháng 1 đến tháng 7, 1940. Nó hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 9 tháng 11, 1935.[1][5][6]
Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]
1934 - 1940[sửa | sửa mã nguồn]
Vào ngày nhập biên chế, I-70 được điều về Quân khu Hải quân Kure và gia nhập Đội tàu ngầm 12 trong vai trò soái hạm của đơn vị này.[6] Đội tàu ngầm 12 được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 2 trực thuộc Đệ Nhị hạm đội, thuộc thành phần Hạm đội Liên hợp vào ngày 15 tháng 11, 1935.[5] Vào ngày 13 tháng 4, 1936, cùng các tàu ngầm cùng Đội tàu ngầm 12: I-68 và I-69, I-70 khởi hành từ Fukuoka cho chuyến đi huấn luyện ngoài khơi Trung Quốc tại khu vực Thanh Đảo; và sau khi kết thúc đội đã quay trở về Sasebo vào ngày 22 tháng 4, 1936.[5][7][8] Ba chiếc tàu ngầm lại khởi hành từ Makō (nay là Mã Công) thuộc quần đảo Bành Hồ vào ngày 4 tháng 8, 1936 cho một chuyến đi huấn luyện ngoài khơi Hạ Môn, Trung Quốc, và quay trở về Makō vào ngày 6 tháng 9, 1936.[5][7][8]
I-70 được cho xuất biên chế và đưa về Hạm đội dự bị 3 tại Quân khu Hải quân Kure từ ngày 15 tháng 12, 1938.[5] Đến ngày 24 tháng 8, 1939, con tàu được tái trang bị và đại tu tại Xưởng vũ khí Hải quân Kure ở Kure, Hiroshima, nơi nó được trang bị một máy tính tấn công cải tiến và một bộ sonar thụ động Kiểu 93.[6] Trong thời gian này, Đội tàu ngầm 12 được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 3 trực thuộc Đệ Nhị hạm đội vào ngày 15 tháng 11, 1939.[6]
I-70 hoàn tất việc tái trang bị kịp thời để cùng I-68, I-69 và các tàu ngầm I-73 I-74 và I-75 khởi hành từ Okinawa vào ngày 27 tháng 3, 1940, tham gia chuyến đi huấn luyện tại vùng biển phía Nam Trung Quốc; và sau khi hoàn tất sáu chiếc tàu ngầm đã đi đến Takao (nay là Cao Hùng), Đài Loan vào ngày 2 tháng 4, 1940.[5][7][8][9][10][11]
1941[sửa | sửa mã nguồn]
I-69 đã tạm thời thay phiên cho I-70 trong vai trò soái hạm của Đội tàu ngầm 12 từ ngày 26 tháng 1, 1941, và I-70 quay lại vai trò này vào ngày 30 tháng 3, 1941.[6] Vào ngày 12 tháng 5, 1941, I-70 gặp tai nạn va chạm với I-69;[5][6] nó chịu đựng một vết cắt dài bên mạn trái kéo dài cho đến tận tháp chỉ huy; trong khi I-69 bị hư hại mũi tàu.[6] Cả hai đã quay trở về Yokosuka để sửa chữa.[6]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b c d e f Jentschura 1976, tr. 172
- ^ Carpenter & Polmar 1986, tr. 96
- ^ Chesneau 1980, tr. 198
- ^ a b Bagnasco 1977, tr. 183
- ^ a b c d e f g h “I-70”. ijnsubsite.com. 16 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
- ^ a b c d e f g h i j Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2016). “IJN Submarine I-70: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
- ^ a b c “I-168”. ijnsubsite.com. 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
- ^ a b c “I-169”. ijnsubsite.com. 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
- ^ “I-73”. ijnsubsite.com. 5 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
- ^ “I-174”. ijnsubsite.com. 24 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
- ^ “I-175”. ijnsubsite.com. 25 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]
- Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
- Boyd, Carl (2012). The Japanese Submarine Force in World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-1557500151.
- Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
- Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
- Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869-1945. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-893-X.
- Rohwer, Jürgen (2005). Chronology of the War at Sea 1939–1945: The Naval History of World War Two . Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-59114-119-2.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2016). “IJN Submarine I-70: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.