I-177 (tàu ngầm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm chị em I-176, một chiếc lớp Kaidai VII tiêu biểu.
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 155
Xưởng đóng tàu Kawasaki, Kobe
Đặt lườn 10 tháng 3, 1941
Đổi tên I-77, 17 tháng 12, 1941
Hạ thủy 20 tháng 12, 1941
Đổi tên I-177, 20 tháng 5, 1942
Nhập biên chế 28 tháng 12, 1942
Số phận Bị tàu hộ tống khu trục Samuel S. Miles đánh chìm tại Palau, 3 tháng 10, 1944
Xóa đăng bạ 1 tháng 3, 1945
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu tàu ngầm lớp Kaidai (Kiểu VII)
Trọng tải choán nước
  • 1.833 tấn Anh (1.862 t) (nổi)
  • 2.606 tấn Anh (2.648 t) (ngầm)
Chiều dài 105,5 m (346 ft 2 in)
Sườn ngang 8,25 m (27 ft 1 in)
Mớn nước 4,6 m (15 ft 1 in)
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.000 nmi (15.000 km) ở tốc độ 16 kn (30 km/h; 18 mph) (nổi) [1]
  • 50 nmi (93 km) ở tốc độ 5 kn (9,3 km/h; 5,8 mph) (ngầm) [1]
Độ sâu thử nghiệm 80 m (260 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 86 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

I-177 (nguyên là tàu ngầm số 155, rồi I-77 cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương Lớp Kaidai thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào cuối năm 1942. Nó đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tuần tra tại Australia, hoạt động tại vùng biển Bắc Thái Bình Dương và tham gia các chiến dịch New Guinea, quần đảo Mariana và Palau trước khi bị tàu hộ tống khu trục USS Samuel S. Miles (DE-183) đánh chìm tại khu vực Palau vào ngày 3 tháng 10, 1944 với tổn thất nhân mạng toàn bộ.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Phân lớp tàu ngầm Kaidai VII là phiên bản tàu ngầm tấn công tầm trung được phát triển dựa trên phân lớp Kaidai VI. Chúng có trọng lượng choán nước 1.862 tấn (1.833 tấn Anh) khi nổi và 2.648 tấn (2.606 tấn Anh) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 105,5 m (346 ft 2 in), mạn tàu rộng 8,25 m (27 ft 1 in) và mớn nước sâu 4,6 m (15 ft 1 in). Con tàu có thể lặn sâu 80 m (262 ft) và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 86 sĩ quan và thủy thủ.[2]

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất 4.000 mã lực phanh (2.983 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện 900 mã lực (671 kW).Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph) khi nổi[1] và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn.[1] Khi Kaidai VII di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động 8.000 hải lý (15.000 km; 9.200 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 50 nmi (93 km; 58 mi) ở tốc độ 5 hải lý trên giờ (9,3 km/h; 5,8 mph).[1][3]

Lớp Kaidai VII có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả đều được bố trí trước mũi, và mang tổng cộng 12 ngư lôi. Vũ khi trên boong tàu thoạt tiên dự định bao gồm hai khẩu pháo phòng không 25 mm (1,0 in) Kiểu 96 nòng đôi, nhưng sau đó một hải pháo 12 cm (4,7 in) chống hạm thay chỗ cho một khẩu đội 25mm.[4]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Vũ trang Hải quân Bổ sung thứ tư năm 1939, nhưng nó chỉ được đặt lườn như Tàu ngầm số 155 tại xưởng tàu của hãng KawasakiKobe vào ngày 10 tháng 3, 1941.[5][6] Nó được đổi tên thành I-77 và phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Sasebo vào ngày 17 tháng 12, 1941,[6] được hạ thủy vào ngày 20 tháng 12, 1941,[5][6] rồi được đổi tên thành I-177 vào ngày 20 tháng 5, 1942[5][6] và nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào ngày 28 tháng 12, 1942.[5][6]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Khi nhập biên chế, I-177 được phân về Hải đội Tàu ngầm Kure trực thuộc Quân khu Hải quân Kure.[5][6] Nó được điều sang Đội tàu ngầm 22 vào ngày 25 tháng 2, 1943, trực thuộc Đệ Lục hạm đội, một bộ phận của Hạm đội Liên hợp.[5][6] Đội tàu ngầm 22 được chuyển sang Hải đội Tàu ngầm 3 trực thuộc Đệ Lục hạm đội vào ngày 15 tháng 3, 1943.[5][6] Đến ngày 30 tháng 3, I-177 rời Kure để cùng tàu ngầm chị em I-178 đi sang khu vực Truk, đến nơi vào ngày 7 tháng 4.[5][6]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h Jentschura 1976, tr. 172
  2. ^ Carpenter & Polmar 1986, tr. 105
  3. ^ Chesneau 1980, tr. 199
  4. ^ Bagnasco 1977, tr. 183, 186
  5. ^ a b c d e f g h “I-177 ex. I-77 ex No-155”. ijnsubsite.com. 9 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2024.
  6. ^ a b c d e f g h i Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2 tháng 9 năm 2015). “IJN Submarine I-177: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Edwards, Bernard (1997). Blood and Bushido: Japanese Atrocities at Sea 1941–1945. New York: Brick Tower Press. ISBN 1-883283-18-3.
  • Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869-1945. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-893-X.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Dennis, Peter; Grey, Jeffrey (2009). The Oxford Companion to Australian Military History. Melbourne: Oxford University Press. ISBN 978-0-19-551784-2.
  • Jenkins, David (1992). Battle Surface! Japan's Submarine War Against Australia 1942–44. Milsons Point, NSW: Random House Australia. ISBN 0-09-182638-1. OCLC 0091826381.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]