I-172 (tàu ngầm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm chị em I-68, một chiếc lớp Kaidai VI tiêu biểu
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi I-72
Xưởng đóng tàu Xưởng đóng tàu Mitsubishi, Kobe
Đặt lườn 16 tháng 12, 1933
Hạ thủy 6 tháng 4, 1935
Hoàn thành 7 tháng 1, 1937
Nhập biên chế 7 tháng 1, 1937
Đổi tên I-172, 20 tháng 5, 1942
Số phận Bị đánh chìm tại khu vực đảo San Cristóbal trong khoảng tháng 10 hoặc tháng 11, 1942
Xóa đăng bạ 15 tháng 12, 1942
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu tàu ngầm lớp Kaidai (Kiểu VIa)
Trọng tải choán nước
  • 1.785 tấn Anh (1.814 t) (nổi)
  • 2.440 tấn Anh (2.479 t) (ngầm)
Chiều dài 104,7 m (343 ft 6 in)
Sườn ngang 8,2 m (26 ft 11 in)
Mớn nước 4,58 m (15 ft 0 in)
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km) ở tốc độ 10 kn (19 km/h; 12 mph) (nổi) [1]
  • 65 nmi (120 km) ở tốc độ 3 kn (5,6 km/h; 3,5 mph) (ngầm) [1]
Tầm hoạt động 341 tấn nhiên liệu
Độ sâu thử nghiệm 70 m (230 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 68 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

I-72, sau đổi tên thành I-172, là một tàu ngầm tuần dương[1] Lớp Kaidai thuộc phân lớp Kaidai VIa nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1937. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, hỗ trợ cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng rồi tham gia chiến dịch Guadalcanal trước khi bị đánh chìm tại khu vực đảo San Cristóbal trong khoảng tháng 10 hoặc tháng 11, 1942.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Phân lớp tàu ngầm Kaidai VIa là phiên bản được cải tiến từ phân lớp Kaidai V với tốc độ đi nổi nhanh hơn và lặn sâu hơn. Chúng có trọng lượng choán nước 1.814 tấn (1.785 tấn Anh) khi nổi và 2.479 tấn (2.440 tấn Anh) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 104,7 m (343 ft 6 in), mạn tàu rộng 8,2 m (26 ft 11 in) và mớn nước sâu 4,57 m (15 ft 0 in). Con tàu có thể lặn sâu 75 m (246 ft) và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 68 sĩ quan và thủy thủ.[2]

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất 4.500 mã lực phanh (3.356 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện 900 mã lực (671 kW).[3] Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph) khi nổi và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn. Khi Kaidai VIa di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph), và có thể lặn xa 65 nmi (120 km; 75 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[4]

Lớp Kaidai VIa có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang tổng cộng 14 ngư lôi. Vũ khi trên boong tàu bao gồm hải pháo 10 cm (3,9 in)/50 caliber lưỡng dụng (chống hạm và phòng không), cùng một súng máy 13,2 mm (0,52 in) phòng không.[4]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Trong khuôn khổ Chương trình Vũ trang Hải quân Bổ sung thứ nhất năm 1931, I-72 được đặt lườn xưởng đóng tàu của hãng Mitsubishi tại Kobe vào ngày 16 tháng 12, 1933 và được hạ thủy vào ngày 6 tháng 4, 1935.[5][6][1] Nó hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 7 tháng 1, 1937.[5][6]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1937 - 1940[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày nhập biên chế, I-72 được điều về Quân khu Hải quân Kure và gia nhập Đội tàu ngầm 20.[6][5] Đơn vị này được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 3 trực thuộc Đệ Nhị hạm đội, thuộc thành phần Hạm đội Liên hợp vào ngày 1 tháng 12, 1937.[5] Đang khi di chuyển trên mặt nước với tầm nhìn hạn chế vào ngày 5 tháng 5, 1938, nó mắc tai nạn va chạm với thuyền máy Hachiyo Maru 60 GRT trong biển nội địa Seto, về phía Tây đảo Kurahashi-jima.[6] I-72 chỉ bị hư hại nhẹ, nhưng Hachiyo Maru đắm chỉ trong vòng hai phút sau cú va chạm.[6] Đội tàu ngầm 20 chuyển sang Hải đội Tàu ngầm 2 trực thuộc Đệ Nhị hạm đội vào ngày 5 tháng 7, 1938,[5] rồi được điều trở lại Hải đội Tàu ngầm 3 và vẫn trực thuộc Đệ Nhị hạm đội vào ngày 15 tháng 11, 1939.[5] Hải đội Tàu ngầm 3 được chuyển sang Đệ Lục hạm đội, thuộc thành phần Hạm đội Liên hợp, vào ngày 15 tháng 11, 1940.[5]

1941[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f Jentschura 1976, tr. 172
  2. ^ Carpenter & Polmar 1986, tr. 96
  3. ^ Chesneau 1980, tr. 198
  4. ^ a b Bagnasco 1977, tr. 183
  5. ^ a b c d e f g “I-172 ex I-72”. ijnsubsite.com. 30 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
  6. ^ a b c d e Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2016). “IJN Submarine I-172: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl (2012). The Japanese Submarine Force in World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-1557500151.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869-1945. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-893-X.
  • Rohwer, Jürgen (2005). Chronology of the War at Sea 1939–1945: The Naval History of World War Two . Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-59114-119-2.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]