I-158 (tàu ngầm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
I-58
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi I-58
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Yokosuka, Yokosuka
Đặt lườn 3 tháng 12, 1924
Hạ thủy 3 tháng 10, 1925
Hoàn thành 15 tháng 5, 1928
Nhập biên chế 15 tháng 5, 1928
Xuất biên chế 1 tháng 6, 1932
Tái biên chế 1 tháng 12, 1932
Xuất biên chế 1 tháng 11, 1933
Tái biên chế 27 tháng 9, 1934
Xuất biên chế 5 tháng 10, 1934
Tái biên chế 1 tháng 12, 1936
Xuất biên chế 7 tháng 1, 1937
Tái biên chế 1 tháng 1, 1938
Xuất biên chế 15 tháng 12, 1938
Tái biên chế 15 tháng 11, 1939
Đổi tên I-158, 20 tháng 5, 1942
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu tàu ngầm lớp Kaidai (Kiểu IIIA)
Trọng tải choán nước
  • 1.800 tấn Anh (1.829 t) (nổi)
  • 2.300 tấn Anh (2.337 t) (ngầm)
Chiều dài 100 m (328 ft 1 in)
Sườn ngang 8 m (26 ft 3 in)
Mớn nước 4,82 m (15 ft 10 in)
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 10.000 nmi (19.000 km) ở tốc độ 10 kn (19 km/h; 12 mph) (nổi)
  • 90 nmi (170 km) ở tốc độ 3 kn (5,6 km/h; 3,5 mph) (ngầm)
Độ sâu thử nghiệm 60 m (200 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 60 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

I-58, sau đổi tên thành I-158, là một tàu ngầm tuần dương Lớp Kaidai thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã hỗ trợ cho chiến dịch xâm chiếm Malaya vào tháng 12, 1941Đông Ấn thuộc Hà Lan vào đầu năm 1942, và đã góp công trong hoạt động đánh chìm các chiến hạm Prince of Wales Repulse . Sau khi tiếp tục tham gia trận Midway vào tháng 6, 1942, nó phục vụ chủ yếu như một tàu huấn luyện cho đến đầu năm 1945, khi được cải biến thành tàu chở ngư lôi tự sát Kaiten, rồi đầu hàng lực lượng Đồng Minh vào cuối chiến tranh. I-158 bị đánh chìm vào năm 1946.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Phân lớp Kaidai IIIA là những tàu ngầm tuần dương đầu tiên được Nhật Bản thiết kế, dựa trên kinh nghiệm của các thiết kế trước đó có nguồn gốc từ các tàu tuần dương Anh và Đức.[1] Nó có trọng lượng choán nước 1.800 tấn Anh (1.829 t) khi nổi và 2.300 tấn Anh (2.337 t) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 100 m (328 ft 1 in), mạn tàu rộng 8 m (26 ft 3 in) và mớn nước sâu 4,82 m (15 ft 10 in). Nó có khả năng lặn đến độ sâu 60 m (200 ft), và thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 60 sĩ quan và thủy thủ.[2]

Con tàu di chuyển trên mặt nước nhờ hai động cơ diesel 3.400 mã lực phanh (2.535 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện 900 mã lực (671 kW). Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph) khi nổi và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph)khi lặn. Khi Kaidai IIIA di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động 10.000 hải lý (19.000 km; 12.000 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph), và có thể lặn xa 90 nmi (170 km; 100 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[3]

Lớp Kaidai IIIA có tám ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), gồm sáu ống trước mũi và hai ống phía đuôi; mỗi ống mang theo một quả ngư lôi nạp lại, nên mang tổng cộng 16 ngư lôi. Chúng cũng trang bị một 12 cm (4,7 in)/45 caliber trên boong tàu.[4]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

I-58 được đặt lườn tại Xưởng vũ khí Hải quân YokosukaYokosuka vào ngày 3 tháng 12, 1924.[5][6] Nó được hạ thủy vào ngày 3 tháng 10, 1925,[5][6] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 15 tháng 5, 1928.[2][5][6]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1928 - 1941[sửa | sửa mã nguồn]

I-58, năm 1927

Khi nhập biên chế, I-58 được phân về Quân khu Hải quân Kure.[5][6] Vào ngày 1 tháng 4, 1929, Đội tàu ngầm 19 được thành lập mới và phối thuộc cùng Hải đội Tàu ngầm 2, trực thuộc Đệ Nhị hạm đội, nằm trong thành phần Hạm đội Liên hợp,[7]I-58 gia nhập đơn vị này cùng ngày hôm đó.[5][6] Đội tàu ngầm 19 được điều về Đội Phòng vệ Kure trực thuộc Quân khu Hải quân Kure vào ngày 1 tháng 12, 1931,[5] rồi quay trở lại Hải đội Tàu ngầm 2 trực thuộc Đệ Nhị hạm đội vào ngày 20 tháng 5, 1932.[5] I-58 được đưa về thành phần dự bị tại Kure vào ngày 1 tháng 6, 1932.[5]

Quay trở lại phục vụ từ ngày 1 tháng 12, 1932,[5] I-58 đã cùng với các tàu ngầm khác thuộc Đội tàu ngầm 19: I-56I-57, và Đội tàu ngầm 18 bao gồm các chiếc I-53, I-54I-55, khởi hành từ Sasebo vào ngày 29 tháng 6, 1933 cho một đợt huấn luyện ngoài khơi Trung QuốcMã Công thuộc quần đảo Bành Hồ, và khi kết thúc đã đi đến Cao Hùng, Đài Loan vào ngày 5 tháng 7, 1933.[5][8][9][10][11][12] Họ rời Cao Hùng vào ngày 13 tháng 7 để tiếp tục huấn luyện tại vùng biển Trung Quốc rồi quay trở lại vịnh Tokyo vào ngày 21 tháng 8.[5][8][9][10][11][12] Đến ngày 25 tháng 8, cả sáu chiếc tàu ngầm đều đã tham gia cuộc duyệt binh hạm đội tại Yokohama.[5][8][9][10][11][12] I-58 lại được đưa về thành phần dự bị tại Kure vào ngày 1 tháng 11, 1933.[5][6]

I-58 quay trở lại phục vụ kịp lúc khi nó rời Ryojun, Mãn Châu để cùng các đồng đội thuộc Đội tàu ngầm 19 I-56, I-57, và các tàu ngầm I-61, I-62, I-64, I-65, I-66I-67 thực hiện chuyến đi huấn luyện ngoài khơi Thanh Đảo, Trung Quốc. Sau khi hoàn tất, cả chín chiếc tàu ngầm đều quay về Sasebo, Nhật Bản vào ngày 5 tháng 10, 1934.[5][11][12][13][14][15][16][17][18] Nó lại quay về thành phần dự bị tại Kure không lâu sau chuyến đi này;[5][6] trong khi đó Đội tàu ngầm 19 lại được điều động về Hải đội Phòng vệ Kure trực thuộc Quân khu Hải quân Kure từ ngày 15 tháng 11, 1934,[5] rồi chuyển sang Hải đội Tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Nhất hạm đội, phối thuộc cùng Hạm đội Liên hợp từ ngày 15 tháng 11, 1935.[5]

I-58 quay trở lại phục vụ vào ngày 1 tháng 12, 1936,[5][6] đúng vào ngày Đội tàu ngầm 19 lại được điều động về Quân khu Hải quân Kure.[5] Đơn vị này được đưa về Hạm đội Dự bị 1 từ ngày 7 tháng 1, 1937,[5] quay trở lại phục vụ cùng quân khu vào ngày 1 tháng 1, 1938,[5] rồi được đưa về Hạm đội Dự bị 3 từ ngày 15 tháng 12, 1938.[5] Đội tàu ngầm 19 trở lại phối thuộc cùng Hải đội Tàu ngầm 4 thuộc Đệ Nhất hạm đội vào ngày 15 tháng 11, 1939.[5] Đang khi thực hành cơ động ban đêm về phía Nam vịnh Tokyo vào ngày 26 tháng 8, 1940, I-58 gặp thảm kịch khi nó thực hành phóng ngư lôi mô phỏng nhắm vào tàu chiến của Hạm đội Liên hợp.[6]Con tàu tiến hành lặn khẩn cấp sau khi phóng ngư lôi mô phỏng, nhưng thủy thủ trên cầu tàu đã không sơ tán kịp thời để đóng nắp hầm. Thủy thủ cuối cùng còn lại, Hirose Masao, đã đóng nắp hầm từ bên ngoài để con tàu không bị ngập nước, và bị đuối nước khi lặn xuống.[6] Hải đội Tàu ngầm 4 được phối thuộc trực tiếp cùng Hạm đội Liên Hợp vào ngày 15 tháng 11, 1940.[5]

1941 - 1942[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Jentschura 1976, tr. 170
  2. ^ a b Carpenter & Polmar 1986, tr. 93
  3. ^ Chesneau 1980, tr. 198
  4. ^ Bagnasco 1977, tr. 183
  5. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x “I-158”. ijnsubsite.com. 20 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  6. ^ a b c d e f g h i j Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (1 tháng 10 năm 2017). “IJN Submarine I-158: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  7. ^ “Submarine Division 19”. ijnsubsite.com. 20 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2021.
  8. ^ a b c “I-153”. ijnsubsite.com. 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
  9. ^ a b c “I-154”. ijnsubsite.com. 11 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2022.
  10. ^ a b c “I-155”. ijnsubsite.com. 10 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
  11. ^ a b c d “I-156”. ijnsubsite.com. 15 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2022.
  12. ^ a b c d “I-157”. ijnsubsite.com. 16 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
  13. ^ “I-61”. ijnsubsite.com. 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
  14. ^ “I-162 ex I-62”. iijnsubsite.info. 9 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
  15. ^ “I-164 ex I-64”. iijnsubsite.info. 9 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
  16. ^ “I-165 ex I-65”. iijnsubsite.info. 11 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
  17. ^ “I-166 ex I-66”. iijnsubsite.info. 30 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
  18. ^ “I-67”. ijnsubsite.com. 14 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl (2012). The Japanese Submarine Force in World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-1557500151.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Edwards, Bernard (1997). Blood and Bushido: Japanese Atrocities at Sea 1941–1945. New York: Brick Tower Press. ISBN 1-883283-18-3.
  • Evans, David C. (1997). Kaigun: Strategy, Tactics, and Technology in the Imperial Japanese Navy, 1887-1941. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-192-7.
  • Gill, G. Hermon (1957). Royal Australian Navy 1939-1942. Australia in the War of 1939–1945. Series 2 – Navy. 1. Canberra: Australian War Memorial. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2009.
  • Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869-1945. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-893-X.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]