Thiên hoàng Jimmu
Thiên hoàng Jinmu Jinmu-tennō 神武天皇 | |
---|---|
Thiên hoàng Nhật Bản | |
![]() Tranh in Thiên hoàng Jinmu, vào thời kỳ Minh Trị. | |
Thiên hoàng đầu tiên của Nhật Bản | |
Tại vị | 660 tcn - 585 tcn (Truyền thuyết) |
Tiền nhiệm | Không |
Kế nhiệm | Thiên hoàng Suizei |
Thông tin chung | |
Sinh | 1 tháng 1 năm 711 TCN (huyền thoại) |
Mất | 11 tháng 3 năm 585 TCN (huyền thoại) |
An táng | Unebi-yama no ushitora no sumi no Misasagi (Nara) |
Thiên hoàng Jinmu (神武天皇 (Thần Vũ thiên hoàng) Jinmu-tennō) còn gọi là Kamuyamato Iwarebiko; tên thánh: Wakamikenu no Mikoto hay Sano no Mikoto, sinh ra theo ghi chép mang tính thần thoại trong Cổ Sự Ký vào 1 tháng 1 năm 711 TCN, và mất, cũng theo truyền thuyết, ngày 11 tháng 3, năm 585 TCN (cả hai đều theo âm lịch truyền thống Nhật Bản), là người sáng lập theo truyền thuyết của đất nước Nhật Bản, và là vị Thiên hoàng đầu tiên có tên trong Danh sách Thiên hoàng truyền thống.[1] Hoàng gia Nhật Bản tuyên bố mình là hậu duệ của vua Jimmu. Không thể định rõ được ngày tháng cuộc đời cũng như triều đại của vị Thiên hoàng này. Triều đại của Thiên hoàng Kimmei (509? - 571), Thiên hoàng thứ 29 trong danh sách truyền thống, là triều đầu tiên mà lịch sử đương đại có thể xác định thời gian thẩm tra được.[2]
Mục lục
Truyện truyền thuyết[sửa | sửa mã nguồn]
Thiên hoàng Jimmu được coi là một "Thiên hoàng truyền thuyết" vì có rất ít thông tin về ông, và cũng không nhất thiết ám chỉ rằng không có người nào như thế từng tồn tại. Hơn nữa, các học giả chỉ còn biết than vãn rằng, vào thời điểm này, không có đủ cứ liệu lịch sử để thẩm tra và nghiên cứu thêm.
Theo niềm tin Thần đạo, Jimmu được coi là hậu duệ trực tiếp của nữ thần Mặt trời Amaterasu. Amaterasu có một người con trai gọi là Ame no Oshihomimi no Mikoto rồi có một đứa cháu trai tên là Ninigi-no-Mikoto. Bà cử cháu mình đến quần đảo Nhật Bản, ở đây ông cưới Konohana-Sakuya-hime. Trong số ba con trai của họ có Hikohohodemi no Mikoto, còn gọi là Yamasachi-hiko, sau này cưới Toyotama-hime. Bà là con gái của Ryūjin, thần biển Nhật Bản. Họ có một người con trai duy nhất tên là Hikonagisa Takeugaya Fukiaezu no Mikoto. Đứa bé bị cha mẹ từ bỏ ngay sau khi sinh và do đó được em gái của mẹ, Tamayori-hime, nuôi nấng. Họ cuối cùng cưới nhau và có bốn con trai. Người con út sau này trở thành Thiên hoàng Jimmu.
Người ta nói rằng ít lâu sau khi Thiên hoàng Jimmu lên nối ngôi, một Trưởng tế được bổ nhiệm (saishu). Cơ quan này thường do một người họ Nakatomi nắm giữ sau thế kỷ 8.[3]
Ngày mừng năm mới của Nhật Bản theo âm lịch được kỷ niệm làm ngày lên ngôi của Thiên hoàng Jimmu.
Năm 1872, triều đình Minh Trị tuyên bố lấy ngày 11 tháng 2 năm 660 TCN theo lịch Gregory làm ngày lập quốc. Ngày lễ bí ẩn này được kỷ niệm là ngày lễ Kigensetsu ("Kỷ nguyên tiết") từ năm 1872 đến năm 1948. Ngày lễ Kigensetsu năm 1940 ngày nay vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng vào đầu thời kỳ Chiêu Hòa, bất kỳ câu hỏi nào cũng bị bỏ qua vì toàn bộ quốc gia đều kỷ niệm năm thứ 2.600 ngày lên ngôi của Thiên hoàng Jimmu.[4]
Ngày lễ này bị đình chỉ sau Chiến tranh Thái Bình Dương, và việc kỷ niệm nó được phục hồi lại năm 1966 với cái tên Kenkoku Kinen no hi ("Kiến quốc kỷ niệm").
Thiên hoàng Jimmu di cư[sửa | sửa mã nguồn]
Ghi chép truyền thuyết trong Kojiki và Nihon Shoki cho chúng ta biết các anh của Thiên hoàng Jimmu ban đầu sinh ra ở Takachiho, phía Nam đảo Kyūshū (ngày nay là tỉnh Miyazaki), và quyết định đi về phía Đông, vì họ thấy vị trí của mình không thích hợp để trị vì toàn bộ đất nước. Anh trai của Jimmu, Itsuse no Mikoto ban đầu dẫn đầu đoàn di trú, và họ đi về phía Đông qua biển Seto với sự giúp đỡ của tù trưởng địa phương Sao Netsuhiko. Khi họ đến Naniwa (ngày nay là Ōsaka), họ đối mặt với một tù trưởng khác, Nagasunehiko (nghĩa là "người chân dài"), và Itsuse bị giết trong một trận giao tranh sau đó. Thiên hoàng Jimmu nhận ra rằng họ bị đánh bại vì họ đánh về phía Đông, chống lại thần Mặt trời, vì vậy họ quyết định đổ bộ xuống phía Đông bán đảo Kii và đánh về phía Tây. Họ đến Kumano, và với sự hướng dẫn của chim ba chân, Yatagarasu (tạm dịch "quạ 8 cánh"), đến được vùng đất Yamato. Ở đó, họ lại một lần nữa giao chiến với Nagasunehiko và giành chiến thắng.
Ở Yamato, Nigihayahi no Mikoto, người cũng tự xưng là hậu duệ của thần Takamagahara, được Nagasunehiko bảo vệ. Tuy nhiên, khi Nigihayahi gặp Jimmu, chấp nhận tính hợp pháp của Thiên hoàng, và ông lên làm vua.
Lăng mộ (misasagi) chính thức của Thiên hoàng Jimmu, có thể tìm thấy ở Kashibara tại tỉnh Nara. Lăng mộ này nằm không xa đền Kashibara.
Theo Kojiki, Thiên hoàng Jimmu qua đời ở tuổi 126. Thụy hiệu của ông là "Jimmu" (Thần Vũ). Không nghi ngờ gì nữa cái tên này có dạng tiếng Hán và mang nội hàm Phật giáo, nghĩa là nó phải được hợp thức hóa hàng thế kỷ sau thời kỳ vẫn gán cho Thần Vũ, có lẽ là vào thời mà các huyền thoại về nguồn gốc của triều đại Yamato được biên soạn thành biên niên sử ngày nay vẫn gọi là Kojiki.[5]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Brown, Delmer et al. (1979). Gukanshō, p. 249; Varley, Paul. (1980). Jinnō Shōtōki, các trang 84-88; Titsingh, Isaac. (1834). Annales des empereurs du Japon, các trang 1-3.
- ^ Titsingh, các trang 34-36; Brown, các trang 261-262; Varley, các trang 123-124.
- ^ Brown, p. 249 n10.
- ^ Brownlee, John. Japanese Historians and the National Myths, 1600-1945: The Age of the Gods, các trang 136, 180-185.
- ^ Aston, William. (1896). Nihongi, các trang 109-137.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Aston, William George. (1896). Nihongi: Biên niên sử Nhật Bản từ thời sơ khởi đến năm 697. London: Kegan Paul, Trench, Trubner. [reprinted by Tuttle Publishing, Tokyo, 2007. 10-ISBN 0-8048-0984-4; 13-ISBN 978-0-8048-0984-9 (paper)]
- Brown, Delmer M. and Ichirō Ishida, eds. (1979). [ Jien, c. 1220], Gukanshō (Tương lai và quá khứ, bản dịch và nghiên cứu về Gukanshō, lịch sử trình diễn Nhật Bản viets năm 1219). Berkeley: University of California Press. ISBN 0-520-03460-0
- Brownlee, John (1997). Các sử gia Nhật Bản và huyền thoại quốc gia, 1600-1945: Thời đại của các vị thần. Vancouver: University of British Columbia Press. ISBN 0-7748-0645-1
- Titsingh, Isaac, ed. (1834). [Siyun-sai Rin-siyo/Hayashi Gahō, 1652], Nipon o daï itsi ran; ou, Annales des empereurs du Japon. Paris: Hội nghiên cứu phương Đông Anh và Ireland.vào link để có một bản copy của cuốn sách đã được số hóa (tiếng Pháp)
- Varley, H. Paul, ed. (1980). [ Kitabatake Chikafusa, 1359], Jinnō Shōtōki ("Biên niên sử của các vị thần và các vị quốc chủ: Jinnō Shōtōki of Kitabatake Chikafusa" do H. Paul Varley dịch). New York: Nhà xuất bản Đại học Columbia. ISBN 0-231-04940-4
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thiên hoàng Jimmu. |
- Jimmu (Legendary emperor of Japan) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Jimmu Tenno Richard Hooker. World Cultures Title cập nhật 13/9/1997
- AOSHIMA JINJA (Aoshima Shinto Shrine)